Quan điểm của Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng về trường đại học không vì lợi nhuận

18/12/2023 06:36
Thùy Linh (thực hiện)
0:00 / 0:00
0:00
GDVN-Theo TS.Vũ Ngọc Hoàng, trước mắt cần sớm có một nghị định để khuyến khích phát triển loại hình trường không vì lợi nhuận.

LTS: Trên thế giới, loại hình trường đại học không vì lợi nhuận đã phát triển từ lâu. Nổi tiếng nhất phải kể đến những đại học hàng đầu như Harvard, Yale,Stanford,Oxford, MIT,Cambridge… cũng hoạt động theo mô hình này.

Ở Việt Nam, khái niệm này mới xuất hiện những năm gần đây tuy nhiên còn có nhiều ý kiến bàn luận. Theo nhiều chuyên gia, một trong những điểm nổi bật Luật Giáo dục đại học sửa đổi 2018 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2019) là những thay đổi liên quan tới khung pháp lý dành cho trường đại học không vì lợi nhuận.

Hôm nay, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng – Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam để hiểu rõ hơn về loại hình trường này.

Phóng viên: Thưa Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, ông đánh giá như thế nào về mô hình trường không vì lợi nhuận?

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Trước tiên, phải nói rằng, loại hình trường không vì mục đích lợi nhuận có ở cả giáo dục phổ thông chứ không phải chỉ riêng bậc đại học.

Hầu hết các trường dân lập và tất cả các trường công lập đương nhiên cũng đều không vì lợi nhuận. Nhưng trong phạm vi trả lời phỏng vấn này, tôi chỉ chia sẻ về trường đại học không vì mục đích lợi nhuận - loại hình trường do nhân dân và các nhà đầu tư lập ra, không chia lợi nhuận cho các cá nhân góp vốn, không thuộc sở hữu nhà nước và cũng không phải sở hữu tư nhân, thương hiệu và vốn tích lũy được đều thuộc sở hữu của cộng đồng nhà trường.

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng – Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (ảnh: Mộc Trà)

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng – Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam (ảnh: Mộc Trà)

Trường đại học không vì lợi nhuận nói ở đây không có nghĩa là hoạt động của loại trường này luôn luôn không có lợi nhuận, mà là, khi có lợi nhuận đều tích lũy để tăng vốn để tiếp tục đầu tư phát triển nhà trường thuộc sở hữu chung của cộng đồng trường chứ không phân chia cho các cá nhân góp vốn.

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng – nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương

Tuy nhiên, trước khi nói về trường không vì lợi nhuận, tôi xin được nói trước mấy ý kiến về loại hình trường dân lập mà trước đây có chủ trương cho thành lập (là rất đúng) và trên thực tế đã từng có không ít trường tồn tại và hoạt động ở Việt Nam, trong đó có vài chục trường đại học và cao đẳng, nhưng rất tiếc sau đó lại có chủ trương xóa bỏ, chỉ còn lại các trường công lập và tư thục. Rất cần phải xem lại chủ trương xóa bỏ các trường dân lập đó mà hầu hết là thực hiện tư nhân hóa, trong đó có nhiều nơi tập thể hội đồng trường không thống nhất, họ muốn giữ lại mô hình trường dân lập nhưng không được mà buộc phải chuyển đổi.

Đến nay, sau 17 năm có chủ trương không còn trường dân lập nhưng trên thực tế vẫn còn 2 trường chưa chuyển sang tư thục mà tiếp tục bảo vệ mô hình dân lập, họ đang tiếp tục bị sức ép yêu cầu phải chuyển đổi. Nhiều khi tôi tự hỏi không biết sự yêu cầu quyết liệt và tích cực thúc đẩy chuyển đổi này là vì điều gì?

Sở dĩ tôi nói đến vấn đề dân lập trong bài này là vì giữa loại hình dân lập trước đây và loại hình trường không vì lợi nhuận có mối liên hệ bản chất, nên sự ứng xử với chúng sẽ không thể ngược hướng về mặt phương pháp luận.

Mặt khác, cho tới nay, cũng không có chủ trương quy định nào cấm các trường dân lập hoạt động. Mà trường dân lập thì không phải là trường của nhà nước, việc tồn tại hay giải thể, hay chuyển đổi loại hình là việc của cộng đồng trường, chứ cơ quan quản lý nhà nước không nên quyết định thay hoặc gây sức ép để bắt phải chuyển sang cho tư nhân.

Phóng viên: Phải chăng, ông có định kiến gì đối với sở hữu tư nhân?

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Tôi hoàn toàn không hề có định kiến gì đối với sở hữu tư nhân, thậm chí còn coi nó có vị trí hàng đầu trong kinh tế. Nhưng đó là kinh tế, còn lĩnh vực giáo dục thì có những đặc điểm khác, không như kinh tế.

Giáo dục không nằm ngoài và không xa lạ với cơ chế thị trường, giáo dục cũng phải phục vụ cho nhiệm vụ kinh tế - xã hội, nhưng mặt khác, bản thân giáo dục không phải là thị trường (kinh tế) để tìm kiếm lợi nhuận tối đa về tài chính, vì nó có chức năng đầu tiên là giáo dục nhân bản, đầu tư lâu dài không ngừng nghỉ vào việc hình thành nhân cách, xây dựng nền tảng văn hóa, mở mang trí tuệ. Ý nghĩa kinh tế của nó rất sâu xa và rất chiến lược. Từ nhiều thập kỷ trước, các nhà nghiên cứu đã cho rằng, đầu tư cho giáo dục là loại đầu tư phát triển quan trọng nhất.

Tất nhiên cũng cần nói thêm rằng, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển khi giáo dục làm đúng, và khi ấy sẽ mang lại hiệu quả vô cùng lớn kể cả về kinh tế; đồng thời đất nước sẽ không phát triển được nếu giáo dục làm sai. Giáo dục cần nhiều tài chính hơn nữa nhưng quan trọng trước tiên là phải có cách làm đúng. Nghiên cứu kỹ Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục sẽ thấy còn nhiều việc chủ trương rất đúng nhưng trên thực tế thì chưa được thực hiện một cách hiệu quả.

Đơn cử như chúng ta đầu tư cho giáo dục còn ít lắm, nếu tính theo tỉ lệ GDP, còn về ngân sách nhà nước thì không phải ít nếu nói theo lý thuyết. Trường công hiện nay đã chiếm 80% số sinh viên, còn trường ngoài công lập mới khoảng 20% (trong khi ở nhiều nước phát triển, trường ngoài công lập chiếm đến 70% sinh viên). Vai trò của xã hội đối với phát triển giáo dục là rất quan trọng, phải lưu ý điểm này kể cả trong việc lựa chọn loại hình dân lập và không vì lợi nhuận.

Phóng viên: Xin ông chia sẻ rõ hơn về loại hình trường không vì lợi nhuận?

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Trường không vì lợi nhuận là loại hình trường có những ưu điểm so với trường công và trường tư thục có phân chia lợi nhuận. Nhiều nước có nền giáo dục đại học phát triển đã và đang thực hiện khá phổ biến loại hình này. Trong đó đáng kể nhất là Anh, Mỹ và Úc…

Nước Anh có gần 300 trường đại học thì hầu hết là trường không vì lợi nhuận (có thể gọi là trường bán công cũng được), có rất ít các trường tư thục có phân chia lợi nhuận. Và họ cũng không phân biệt công lập và trường không vì lợi nhuận vì tất cả đều được ngân sách nhà nước hỗ trợ dưới các hình thức khác nhau, đều không phân chia lợi nhuận cho cá nhân, tài sản tích lũy thuộc sở hữu cộng đồng nhà trường (không phải của nhà nước và cũng không phải của tư nhân). Theo đó, về bản chất, đều là trường không vì lợi nhuận, mà gọi cách khác là trường bán công thì cũng không sai.

Còn tại nước Mỹ, trong tổng số hơn gần 4.000 trường đại học các loại (đào tạo từ 2 năm trở lên, tức là bao gồm cả cao đẳng) thì trường không vì lợi nhuận chiếm tỷ lệ nhiều nhất, hơn số trường công lập và trường tư thục có phân chia lợi nhuận, mặc dù tính theo số sinh viên thì trường không vì lợi nhuận ít hơn công lập.

Thứ nhất, so với trường tư thục có phân chia lợi nhuận thì trường không vì lợi nhuận có lợi thế về việc không bị chi phối nhiều do cơ chế thị trường bởi không bị "sức ép" về yêu cầu phân chia lợi nhuận, đồng thời có khả năng huy động nguồn tài chính trong và ngoài nước, từ các cá nhân và tổ chức quốc tế.

Quỹ tài chính của các tổ chức quốc tế này có nguồn vốn đầu tư cho giáo dục không vì lợi nhuận và không thấy họ đầu tư cho các trường tư thục có phân chia lợi nhuận, cũng không đầu tư vào các trường công lập của nhà nước. Các quỹ và các cá nhân đó không có mục đích kinh doanh khai thác lợi nhuận mà phần nhiều là thực hiện một ước muốn hỗ trợ cho giáo dục. Nếu đầu tư vào các trường tư thục có phân chia lợi nhuận thì giống như cho tiền vào túi cá nhân, còn đầu tư vào trường công lập thì giống như đi nộp thuế thêm lần nữa.

Qua thực tế ở nhiều nước phát triển cho thấy, nhiều doanh nhân và trí thức thành đạt, cuối đời tích lũy được một số tài chính khá lớn, khi qua đời cũng không ai có thể mang theo nên họ muốn ủng hộ vào các trường học không vì lợi nhuận.

Khi nhấn mạnh lợi thế của trường không vì lợi nhuận, tôi không hề có ý chê trách những nhà đầu tư cho giáo dục theo hình thức tư thục có phân chia lợi nhuận, mà vẫn coi đó là loại đầu tư đáng trân trọng và khuyến khích. Trên thực tế thì vẫn có nhiều nhà đầu tư ở lĩnh vực này thật lòng tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, có những lúc họ miễn chia lãi hoặc nhiều năm chỉ chia lãi ở mức vừa phải, còn lại là để phát triển giáo dục và nhà trường vẫn dành một số học bổng cho học sinh giỏi hoặc bị khó khăn cần giúp đỡ. Đó là nét văn hóa đáng trân trọng của các nhà đầu tư.

Thứ hai, so với các trường công lập thì trường không vì lợi nhuận có ưu thế về cơ chế tự chủ và sáng tạo, đây là nhân tố quan trọng nhất để các trường đại học có thể nhanh chóng trưởng thành. Hạn chế tự chủ và hạn chế sáng tạo thì tất nhiên sẽ chậm trưởng thành, mỗi con người cũng vậy, mà trường học cũng thế.

Hiện nay, trong danh sách các trường thuộc đẳng cấp cao nhất của thế giới và ở nước Mỹ, nước Anh thì trường không vì lợi nhuận chiếm tỷ lệ cao nhất với đa số tuyệt đối.

Theo đánh giá năm 2023 của Tổ chức quốc tế Time Higher Education, trong 10 trường đứng đầu thế giới (7 trường của Mỹ, 3 trường của Anh) thì trường không vì lợi nhuận chiếm 90% (chỉ có 1 trường công lập - xem Phụ lục 1).

Phụ lục 1

Phụ lục 1

Hầu như ít có trường tư có phân chia lợi nhuận nào lọt được vào tốp cao của thế giới (việc chạy theo cơ chế thị trường cũng có mặt ảnh hưởng đến chất lượng). Theo đánh giá năm 2023 của U.S. News & World Report, trong 20 trường đứng đầu của nước Mỹ thì trường không vì lợi nhuận chiếm 95%, còn lại chỉ có 1 trường công lập (xem Phụ lục 2).

Phụ lục 2

Phụ lục 2

Trong tốp 300 trường hàng đầu của Mỹ thì không có trường tư thục có phân chia lợi nhuận nào lọt vào được.

Với tư duy xa hơn thì loại hình trường không vì lợi nhuận rất phù hợp với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, nó hình thành sở hữu xã hội một cách tự nhiên hợp quy luật phát triển trong lĩnh vực giáo dục – nơi mà hoạt động của con người mang tính chất xã hội cao (với lĩnh vực kinh tế thì phương pháp tư duy có khác).

Về lâu dài, xét về mặt tính chất, loại hình không vì lợi nhuận này về cơ bản chính là loại trường dân lập mà trước đây ở Việt Nam đã phát triển một số trường ở các cấp, trong đó có nhiều trường đại học và cao đẳng như đã nói ở trên, nhưng sau đó lại có chỉ đạo thực hiện tư nhân hóa các trường ấy. Khi tư nhân hóa ở các trường dân lập này đã từng xảy ra nhiều ý kiến tranh cãi, không thống nhất với nhau, nhiều người tâm huyết với giáo dục muốn đấu tranh giữ lại trường dân lập nhưng cuối cùng vẫn phải tư nhân hóa.

Ba thập niên qua, cơ chế thị trường đã xâm nhập khá nhiều vào công việc của giáo dục. Giáo dục không phải là nơi để trực tiếp khai thác lợi nhuận tối đa, siêu ngạch. Loại hình trường không vì lợi nhuận góp phần đáng kể cho việc ngăn chặn thị trường hóa tràn lan đối với giáo dục. Điều này vừa có ý nghĩa thực tiễn, lại vừa có ý nghĩa lý luận rất đáng lưu ý.

Phóng viên: Tại Việt Nam, đã có nhiều ý kiến bàn về mô hình trường không vì lợi nhuận từ 15 năm trước, nhất là trước khi ban hành Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo. Nghị quyết của Trung ương và Luật Luật Giáo dục đại học đã chính thức hóa cho việc hình thành các trường đại học không vì lợi nhuận, nhưng vì sao tới nay Việt Nam vẫn loay hoay, thưa ông?

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Không giống như các loại đầu tư có động lực kinh tế trực tiếp trong việc phân chia lợi nhuận cho cổ đông góp vốn, những người sáng lập và tham gia các trường không vì lợi nhuận xuất phát từ mục đích xã hội và văn hóa giáo dục, mang tính nhân văn, từ thiện, không có mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận kinh tế cho cá nhân (tất nhiên họ có mong muốn lợi ích về văn hóa cho xã hội và có phần của cá nhân trong đó). Họ thấy rất mệt mỏi với việc tốn nhiều thì giờ để làm các thủ tục hành chính và giải tỏa mặt bằng xây dựng trường, đó là chưa kể thủ tục phải đấu thầu với các đơn vị kinh doanh khác để có mặt bằng.

Trong khi đó họ còn nhìn thấy ở Việt Nam đã và đang xóa bỏ các trường dân lập và yêu cầu chuyển sang tư nhân hóa. Cũng có ý kiến giải thích rằng, theo quy định hiện nay, đối với các trường công lập khi không thể duy trì thì có thể chuyển sang trường tư thục có phân chia lợi nhuận nhưng không cho chuyển sang trường không vì lợi nhuận. Không hiểu vì sao lại thế!

Thậm chí còn có ý kiến cho rằng, ở Việt Nam văn hóa "hiến tặng" chưa phát triển, nguồn vốn để phát triển các trường không vì lợi nhuận chưa có, vì vậy việc phát triển các trường không vì lợi nhuận là chưa hoặc không khả thi. Nói như thế là quên rằng chúng ta đã từng có nhiều trường dân lập đó thôi.

Đó là lý do vì sao dù đã có nghị quyết trung ương và luật có hiệu lực nhưng đến nay vẫn chưa có nghị định và hướng dẫn việc phát triển các trường không vì lợi nhuận.

Ảnh minh họa: Thùy Linh

Ảnh minh họa: Thùy Linh

Có thể thừa nhận một thực tế rằng văn hóa "hiến tặng" ở nước ta hiện tại chưa phát triển, chưa bằng ở một số nước phát triển, nhưng không phải là hoàn toàn không có khả năng do đó cần cần thúc đẩy loại văn hóa này phát triển ở Việt Nam, một đất nước và dân tộc có truyền thống hiếu học và đạo nghĩa.

Vì vậy, nếu không có vai trò chủ động thúc đẩy và làm "bà đỡ" của nhà nước thì chưa biết đến bao giờ ở nước ta mới có thể ra đời được các trường không vì lợi nhuận – một công việc có ý nghĩa quan trọng lâu dài đối với nền giáo dục của đất nước.

Phóng viên: Theo ông, Nhà nước cần phải hoàn chỉnh khung pháp lý như thế nào để loại hình trường không vì lợi nhuận ra đời và thành công?

Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng: Theo tôi, trước mắt cần sớm có một nghị định để khuyến khích phát triển loại hình này. Tiếp theo là hoàn thiện luật về trường không vì lợi nhuận.

Hiện nay Luật Giáo dục đại học 2018 quy định trường không vì lợi nhuận có chủ sở hữu (bao gồm tư nhân) là không phù hợp, đúng ra chỉ có sở hữu là cộng đồng trường. Thực tế các năm qua đã có một số trường lúc đầu khi xin thành lập thì tuyên bố là không vì lợi nhuận, nhưng về sau lại chuyển sang trường có lợi nhuận. Đó cũng là sự thiếu chặt chẽ của các quy định pháp lý. Trong sự chưa hoàn thiện đó, có một vấn đề có tính bản chất rằng trường không vì lợi nhuận không phải là trường tư thục như cách hiểu hiện nay, mà có thể và nên gọi là trường ngoài công lập không vì lợi nhuận, hoặc là trường dân lập không vì lợi nhuận.

Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục đại học trong những năm đến có nêu ra giải pháp giảm bớt một số trường đại học công lập bằng cách sáp nhập hoặc giải thể. Chúng tôi cũng thấy có lý do khách quan của sự giảm bớt ấy, nhưng giải thể và ngay cả sáp nhập cũng chưa phải là giải pháp tối ưu. Hoàn toàn có thể chọn ít trường trong số trường công lập (do địa phương hoặc doanh nghiệp quản lý), đang tuyển sinh khó khăn, có thể cho chuyển sang loại hình mới này để tạo cú hích ban đầu cho việc ra đời các trường không vì lợi nhuận, với nguyên tắc bảo tồn số vốn đã đầu tư của nhà nước (nhà nước vẫn có thể thu hồi dần số vốn ấy về cho quỹ phát triển giáo dục của quốc gia hoặc tiếp tục đầu tư vào trường không vì lợi nhuận như các nguồn vốn khác).

Mặt bằng đất đai thì nhà nước cho thuê với chính sách ưu đãi cho giáo dục và nghiêm cấm việc chuyển mục đích sử dụng đất. Trong khi chưa kịp sửa luật, Chính phủ có thể đề nghị Thường vụ Quốc hội cho thực hiện thí điểm việc chuyển vài trường công lập loại này sang trường không vì lợi nhuận để từ đó rút kinh nghiệm cho mở rộng.

Nguyên tắc cơ bản và cao nhất thể hiện đặc trưng của trường không vì lợi nhuận là hoàn toàn không có phân chia lợi nhuận cho những người góp vốn, tiền lãi (nếu có) của hoạt động đào tạo đều được để phát triển nhà trường và thuộc sở hữu chung của cộng đồng trường.

Phát triển các trường không vì lợi nhuận cũng là giải pháp rất quan trọng để xây dựng các trường có đẳng cấp cao, trước nhất là lọt được vào tốp 200 của thế giới. Mục tiêu này chúng ta đã từng theo đuổi cách nay vài ba chục năm, đã có những đầu tư đáng kể từ ngân sách Nhà nước, nhưng đến nay có thể nói là chúng ta chưa thành công. Một số trường lớn của Việt Nam cũng mới được xếp vào tốp trên dưới 1000.

Việc có được một số trường đẳng cấp cao sẽ thúc đẩy nâng cao chất lượng chung trong giáo dục đại học, đồng thời cũng tạo thương hiệu quốc gia. Nhiều tập đoàn kinh tế lớn của thế giới khi đầu tư vào đâu họ đều xem xét môi trường giáo dục ở đó – nơi hình thành các nguồn nhân lực chất lượng cao. Việt Nam cần trở lại mục tiêu này, phải quan tâm nhiều hơn cho việc phát triển một số trường có đẳng cấp cao, tất nhiên là bằng cách làm đổi mới căn bản chứ không phải như cách làm mà chúng ta đã không thành công.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng.

Thùy Linh (thực hiện)