Quy mô tăng nhanh nhưng còn nhiều thách thức để nâng cao chất lượng đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ

02/09/2025 06:36
Khánh Hòa
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Quy mô đào tạo sau đại học tăng nhanh, tạo cơ hội phát triển nhân lực chất lượng cao nhưng cũng đặt ra thách thức cho các cơ sở giáo dục đại học.  

Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2024, số lượng người học thạc sĩ và tiến sĩ của Việt Nam tăng hơn 6.000 so với năm 2023, trong đó, nghiên cứu sinh tăng hơn 1.000. [1]

Về đào tạo thạc sĩ, năm 2024 quy mô đào tạo trình độ này có xu hướng tăng ở tất cả các khối ngành so với năm 2023, trong đó, tăng mạnh nhất là khối ngành đào tạo giáo viên, tăng 3.353 học viên tương ứng tăng 34,79% so với năm 2023; khối ngành Kinh doanh và quản lý, Pháp luật, tăng 3.205 học viên với tỷ lệ tăng 10,48% so với năm 2023…

Về đào tạo tiến sĩ, năm 2024 quy mô đào tạo tăng mạnh ở tất cả các khối ngành so với năm 2023, trong đó, tăng mạnh nhất là khối ngành Toán và Thống kê, Máy tính và công nghệ thông tin, Công nghệ kỹ thuật, Kỹ thuật, Sản xuất và chế biến, Kiến trúc và xây dựng tăng 637 nghiên cứu sinh với tỷ lệ tăng 33,32% so với năm 2023; Khối ngành Khoa học sự sống, Khoa học tự nhiên tăng 390 nghiên cứu sinh với tỷ lệ tăng 57,52%; Khối ngành đào tạo giáo viên tăng 350 nghiên cứu sinh với tỷ lệ tăng 51,32%... [2]

Theo đại diện một số cơ sở giáo dục đại học, sự gia tăng người học sau đại học phản ánh xu thế tất yếu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhưng cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc phải có thêm các chính sách hỗ trợ cũng như đầu tư hạ tầng nghiên cứu, phòng thí nghiệm hiện đại để đảm bảo chất lượng đào tạo.

Gia tăng số lượng người học thạc sĩ, tiến sĩ phản ánh tín hiệu tích cực

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Lạc Hồng đánh giá, việc gia tăng số lượng người học sau đại học mang lại nhiều lợi ích quan trọng. Trước hết, việc này góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời bổ sung thêm đội ngũ chuyên gia phục vụ các ngành mũi nhọn, nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo. Đây là yếu tố then chốt góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và phát triển kinh tế - xã hội.

Tiếp đó, số lượng học viên cao hơn thúc đẩy trường đại học đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu và hợp tác liên ngành, từ đó, hình thành hệ sinh thái học thuật sôi động, kết nối chặt chẽ giữa nhà trường, doanh nghiệp và Nhà nước.

Không chỉ vậy, mở rộng đào tạo sau đại học là bước đi chiến lược để Việt Nam phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trên cơ sở gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và nhu cầu thị trường lao động.

Khi số lượng học viên có trình độ cao ngày càng nhiều, Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia sâu hơn vào chương trình trao đổi, nghiên cứu khoa học toàn cầu, giúp nâng cao uy tín quốc gia cũng như tiếp nhận tri thức, phương pháp đào tạo tiên tiến của thế giới.

f1bdf839cd2745791c36.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh (bên trái) - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Lạc Hồng đang trao đổi với sinh viên nghiên cứu về AI, điều khiển robot. Ảnh: NVCC.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Vũ Quỳnh, hiện nay thách thức lớn nhất trong việc nâng cao chất lượng đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ đến từ nhiều yếu tố khác nhau.

Về cơ sở vật chất và nguồn lực đào tạo hiện nay còn hạn chế, đặc biệt là tình trạng thiếu phòng nghiên cứu, thiết bị thực hành, học liệu quốc tế làm giảm hiệu quả giảng dạy và nghiên cứu.

Về nhân lực, tình trạng thiếu giảng viên chất lượng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình đào tạo và khả năng hướng dẫn nghiên cứu.

Về chương trình đào tạo còn lạc hậu, nặng về lý thuyết và phương pháp giảng dạy thụ động.

Những khó khăn trên, khiến sự gắn kết giữa nghiên cứu và thị trường lao động còn yếu, nhiều đề tài nghiên cứu xa rời nhu cầu doanh nghiệp, học viên thiếu kỹ năng làm việc, dễ rơi vào tình trạng thất nghiệp hoặc làm trái ngành. Một số hoạt động nghiên cứu còn hạn chế về chất lượng và tính ứng dụng; hệ sinh thái đổi mới sáng tạo chưa phát triển, hợp tác với doanh nghiệp và kết nối các bên còn mờ nhạt.

Đặc biệt, hệ thống đảm bảo chất lượng chưa đồng bộ, nhiều trường chưa đánh giá chương trình định kỳ, chưa lắng nghe đầy đủ phản hồi từ người học và doanh nghiệp, khiến việc cải tiến chất lượng kém hiệu quả.

Cùng bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Trần Đình Lý - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, việc gia tăng số lượng người học thạc sĩ, tiến sĩ phản ánh tín hiệu tích cực ở cả góc độ xã hội và giáo dục, cho thấy nhu cầu nâng cao trình độ, cập nhật tri thức mới và tham gia sâu hơn vào hoạt động nghiên cứu, đổi mới sáng tạo đang tăng.

Khi số lượng người học sau đại học tăng, sẽ tạo ra nguồn nhân lực trí thức đông đảo, góp phần phục vụ chiến lược phát triển đất nước, nâng cao vị thế và năng lực nghiên cứu của cơ sở giáo dục đại học. Bên cạnh đó, việc này giúp mở rộng cơ hội trao đổi học thuật, nghiên cứu liên ngành, thúc đẩy môi trường khoa học năng động hơn.

Tuy nhiên, cùng với cơ hội, cần chú trọng đến chất lượng đào tạo. Khi quy mô mở rộng, yêu cầu về chuẩn đầu ra, phương pháp đào tạo, đội ngũ giảng viên hướng dẫn, điều kiện nghiên cứu phải được đảm bảo. Chỉ khi cân bằng giữa số lượng và chất lượng thì xu hướng này mới thực sự đóng góp cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao.

thay-ly.jpg
Tiến sĩ Trần Đình Lý - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website nhà trường.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Trang (thầy Trang bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ngành Cơ khí tại Đại học Bách khoa Hà Nội năm 2019) - hiện là giảng viên Khoa Cơ khí, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp, Đại học Thái Nguyên cho rằng, trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ và Internet được sử dụng rộng rãi, nghiên cứu sinh trong nước có thể tiếp cận với tri thức mới của thế giới thông qua kho dữ liệu trực tuyến, tạp chí khoa học quốc tế và mạng lưới trao đổi học thuật. Vì vậy, việc học tập, nghiên cứu tại Việt Nam vẫn đảm bảo về chất lượng.

Thực tế, nhiều nghiên cứu sinh đã công bố công trình trên các tạp chí quốc tế uy tín, tham gia hội thảo quốc tế cũng như kết nối với mạng lưới chuyên gia toàn cầu. Những cơ hội này giúp họ vừa nâng cao năng lực chuyên môn, vừa đóng góp vào quá trình hội nhập của khoa học Việt Nam.

Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn so với học tập ở nước ngoài nằm ở nguồn lực tài chính. Tại nước ngoài, nghiên cứu sinh thường có học bổng hoặc được các giáo sư hỗ trợ một phần kinh phí. Trong khi đó, tại Việt Nam, chính sách học bổng hoặc hỗ trợ dành cho nghiên cứu sinh còn hạn chế. Nhiều trường hợp người học phải tự bỏ chi phí để mua thiết bị phục vụ nghiên cứu. Việc này khiến quá trình nghiên cứu trong nước gặp nhiều khó khăn và cần người học phải nỗ lực hơn.

Hiện nay, đào tạo sau đại học chưa có nhiều chính sách học bổng định kỳ như ở bậc đại học. Điều này phần nào hạn chế động lực học tập, nghiên cứu của học viên cao học và nghiên cứu sinh. Nếu có thêm các chương trình hỗ trợ tài chính ổn định, người học sẽ yên tâm hơn trong việc theo đuổi đề tài, đồng thời nâng cao chất lượng cũng như tính cạnh tranh của nghiên cứu khoa học trong nước.

2fccfb8f4553cd0d9442.jpg
Tiến sĩ Nguyễn Văn Trang, giảng viên Khoa Cơ khí, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp, Đại học Thái Nguyên. Ảnh: NVCC.

Cần triển khai nhiều giải pháp đồng bộ

Chia sẻ về thực tiễn đào tạo sau đại học, thầy Trang cho biết, sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, người học không chỉ nâng cao tư duy nghiên cứu, năng lực làm việc mà còn khẳng định được vị thế khoa học, uy tín cá nhân. Đây là nền tảng mở ra nhiều cơ hội phát triển sự nghiệp như được mời giảng dạy, hợp tác nghiên cứu tại trường đại học, viện nghiên cứu; tham gia vào các dự án nghiên cứu với vai trò cố vấn chuyên môn; đảm nhận một số vị trí quan trọng trong lĩnh vực khoa học - công nghệ.

Theo thầy Trang, để ngày càng nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, cần có chính sách động viên và khuyến khích không chỉ đối với nghiên cứu sinh mà còn với đội ngũ giảng viên hướng dẫn.

Công việc hướng dẫn nghiên cứu sinh đòi hỏi nhiều thời gian, tâm sức và trách nhiệm từ giảng viên. Tuy nhiên, chế độ đãi ngộ cho đội ngũ này hiện còn chưa tương xứng. Vì vậy, Nhà nước và các cơ sở giáo dục đại học cần có chính sách quan tâm hơn, từ việc ghi nhận đóng góp học thuật đến hỗ trợ tài chính. Đối với nghiên cứu sinh, cần có thêm chính sách học bổng, nguồn kinh phí hỗ trợ nghiên cứu hoặc hỗ trợ chi phí sinh hoạt.

Chỉ khi cả giảng viên lẫn nghiên cứu sinh được đảm bảo quyền lợi và điều kiện làm việc, chất lượng đào tạo sau đại học mới có thể nâng cao một cách bền vững.

Bên cạnh yếu tố con người, việc đầu tư cơ sở vật chất và hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại cho các trường đại học là vô cùng cần thiết. Nhiều đề tài nghiên cứu chỉ có thể triển khai hiệu quả khi phòng thí nghiệm đạt chuẩn, trang thiết bị đồng bộ và nguồn dữ liệu phong phú.

Đây là điều kiện quan trọng giúp nghiên cứu sinh rèn luyện kỹ năng thực hành, kiểm chứng giả thuyết khoa học, cũng như tạo ra các sản phẩm nghiên cứu có giá trị ứng dụng. Nếu được quan tâm đầu tư đúng mức, nhà trường không chỉ nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học mà còn khuyến khích sự sáng tạo, gắn kết nghiên cứu với nhu cầu phát triển thực tiễn của đất nước.

trao-bang-1.jpg
Một buổi lễ trao bằng tiến sĩ, thạc sĩ tại Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website nhà trường.

Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các trường đại học, cùng thách thức về tài chính, chế độ đãi ngộ, cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu còn hạn chế, nhiều trường đại học đã đưa ra chính sách hỗ trợ giảng viên học tiến sĩ với ưu đãi hấp dẫn.

Tại Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Tiến sĩ Trần Đình Lý thông tin, nhà trường đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, tạo ra môi trường học thuật cởi mở và hỗ trợ nghiên cứu như đầu tư hạ tầng nghiên cứu, phòng thí nghiệm, thư viện điện tử cùng các quỹ hỗ trợ đề tài. Nhà trường cũng tạo điều kiện cho giảng viên, nhà nghiên cứu tham gia hội thảo, hợp tác quốc tế và các dự án liên ngành. Ngoài ra, chính sách đãi ngộ về lương, thưởng, hỗ trợ nghiên cứu, khuyến khích công bố quốc tế cũng được quan tâm.

Theo Tiến sĩ Trần Đình Lý, để thu hút và phát triển đội ngũ nhân lực trình độ cao, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp. Trong đó, cần xây dựng chính sách quốc gia rõ ràng, ổn định và dài hạn về phát triển nhân lực trình độ cao, ưu tiên nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.

Song song với đó, cần có thêm chính sách hỗ trợ tài chính, đảm bảo điều kiện làm việc tương xứng nhằm tạo động lực cho đội ngũ trí thức gắn bó với môi trường học thuật và nghiên cứu trong nước. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế để tiếp thu công nghệ, phương pháp, mở rộng mạng lưới nghiên cứu.

Không chỉ vậy, cần tăng cường liên kết chặt chẽ giữa nhà trường, doanh nghiệp và viện nghiên cứu để kết quả nghiên cứu có tính ứng dụng cao, giúp người học nhận thấy rõ giá trị đóng góp của bản thân. Việc hợp tác đào tạo với doanh nghiệp nên được điều chỉnh linh hoạt về cả thời gian và địa điểm. Một số chương trình đào tạo có thể triển ngay tại các doanh nghiệp, tập đoàn.

Trong khi đó, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Lạc Hồng cho biết, hiện tại, nhà trường hỗ trợ mỗi giảng viên học tiến sĩ 120 triệu đồng trong suốt khóa học, chia thành ba đợt (40 triệu đồng/đợt). Nếu người học hoàn thành chương trình tiến sĩ trong vòng 3 năm kể từ ngày có quyết định cử đi học sẽ được hỗ trợ thêm 20 triệu đồng.

Trong thời gian học, giảng viên được hưởng 100% lương, giảm 50% số giờ giảng dạy tiêu chuẩn mỗi năm và được nghỉ 2 ngày làm việc mỗi tuần để tập trung học tập, nghiên cứu.

Nếu giảng viên theo học tại Trường Đại học Lạc Hồng sẽ được giảm 50% học phí trong 4 năm, giảm 20% học phí ôn thi và 50% lệ phí thi chứng chỉ tiếng Anh 6 bậc hoặc 50% học phí học văn bằng 2 tiếng Anh. Sau khi tốt nghiệp, giảng viên được bố trí công việc phù hợp với học vị và xét nâng lương tương ứng.

Ngoài ra, Trường Đại học Lạc Hồng còn thu hút nhân tài bằng chính sách đãi ngộ hấp dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Giảng viên được hưởng gần như toàn bộ lợi nhuận từ hợp đồng chuyển giao, đồng thời nhận thêm khoản thưởng khích lệ từ nhà trường.

Hàng năm, thầy cô được nhà trường tạo điều kiện giao lưu, tham gia chương trình hợp tác quốc tế tại Mỹ, Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc, Nhật Bản, Phần Lan…

Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Lạc Hồng cũng cho rằng, việc nâng cao chất lượng nhân lực phải được thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện.

Thứ nhất, về chính sách quốc gia, Nhà nước cần xây dựng chiến lược thu hút nhân tài chuyên sâu, đặt mục tiêu cụ thể theo từng năm. Hoàn thiện khung chính sách cho các lĩnh vực chiến lược như AI, bán dẫn; đẩy mạnh ưu đãi thuế, hỗ trợ chi phí đào tạo, phát triển hạ tầng tại các khu công nghệ cao; đồng thời tăng cường liên kết giữa Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp để đồng bộ hóa đào tạo với nhu cầu thị trường.

Thứ hai, về giáo dục, cần cải tiến chương trình và nâng cao chất lượng đào tạo; Thúc đẩy hợp tác quốc tế, đào tạo thực hành theo mô hình chuẩn quốc tế; Tăng cơ hội tiếp cận giáo dục cho vùng khó khăn thông qua học bổng và chương trình hỗ trợ.

Thứ ba, về phía doanh nghiệp, cần xây dựng chính sách đãi ngộ cạnh tranh, môi trường làm việc linh hoạt; chú trọng đào tạo liên tục, tài trợ hội thảo và chứng chỉ quốc tế; hợp tác với trường học để tổ chức thực tập và các cuộc thi chuyên ngành.

Cuối cùng, về cộng đồng và hệ sinh thái, cần khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, tổ chức nhiều hội thảo, cuộc thi công nghệ để kết nối nhân lực trẻ.

Tài liệu tham khảo:

[1] https://thanhnien.vn/truong-dh-tuyen-tien-si-voi-luong-cao-nhieu-dai-ngo-18525080119331134.htm

[2] https://giaoduc.net.vn/chi-tiet-nhung-con-so-ve-quy-mo-dao-tao-cac-trinh-do-dai-hoc-cua-nuoc-ta-post244679.gd

Khánh Hòa