Một trong những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể đặt ra tại Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là: Phát triển các viện nghiên cứu, trường đại học trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo; phát triển đội ngũ giảng viên, các nhà khoa học đủ năng lực, trình độ đáp ứng việc giảng dạy lĩnh vực khoa học cơ bản; đẩy mạnh hợp tác với các đại học uy tín của nước ngoài; đổi mới mạnh mẽ phương thức đào tạo và ứng dụng công nghệ tiên tiến, nhất là trí tuệ nhân tạo.
Định hướng này được ví như “kim chỉ nam” dẫn dắt, tạo động lực bứt phá và mở ra cơ hội lớn để các cơ sở giáo dục đại học đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, gắn liền với nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
Cơ chế tài chính cùng nguồn nhân lực còn nhiều khó khăn
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trần Vũ - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) cho biết, trong giai đoạn 2020-2025, trường đã hình thành được 66 nhóm nghiên cứu hoạt động ổn định, trong đó có 5 nhóm được Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh công nhận là nhóm nghiên cứu mạnh, nhiều nhóm duy trì năng lực công bố quốc tế Q1-Q2 và có hợp tác quốc tế sâu rộng.
Tạp chí khoa học được xếp hạng theo 4 nhóm dựa trên số lượng trích dẫn, số lượng bài báo được công bố và uy tín của các tạp chí trích dẫn tạp chí được đề cập. Trong đó, Q1 bao gồm các tạp chí uy tín nhất trong lĩnh vực với số lượng trích dẫn cao nhất. Kế đến lần lượt là Q2, Q3 và Q4 với mức độ uy tín và ảnh hưởng giảm dần.
“Số lượng công bố quốc tế của các nhóm nghiên cứu hàng đầu tại các cơ sở giáo dục và viện nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào những lĩnh vực mũi nhọn như: Trí tuệ nhân tạo, Thị giác máy tính, Kỹ thuật y sinh, Năng lượng, Vật liệu tiên tiến, Vi mạch và Công nghệ bán dẫn. Đây là các lĩnh vực được ưu tiên ở tầm quốc gia và có tiềm năng phát triển thành những trung tâm nghiên cứu xuất sắc.
Tuy vậy, lực lượng chuyên gia có trình độ chuyên sâu trong các công nghệ lõi như Thiết kế vi mạch tiên tiến, Bán dẫn thế hệ mới hay Trí tuệ nhân tạo thế hệ sinh vẫn còn rất mỏng, chưa đủ để hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh, có sức cạnh tranh quốc tế.
Bài toán nhân lực chất lượng cao trở thành thách thức lớn nhất, khi thị trường lao động trong nước khan hiếm, còn phần lớn chuyên gia đầu ngành lại đang làm việc tại các tập đoàn công nghệ, phòng thí nghiệm hoặc trường đại học lớn ở nước ngoài.
Hạ tầng nghiên cứu của Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) dù sở hữu tới 2 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và 5 phòng thí nghiệm trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa đạt chuẩn khu vực về chiều sâu công nghệ, tính chuyên biệt và khả năng tích hợp với các dây chuyền nghiên cứu - sản xuất hiện đại.
Ngoài ra, cơ chế tuyển dụng và đãi ngộ chưa đủ sức cạnh tranh so với khối doanh nghiệp và các trung tâm nghiên cứu quốc tế khiến việc thu hút, giữ chân nhân tài, đặc biệt ở các lĩnh vực mũi nhọn trở nên khó khăn hơn bao giờ hết”, Phó Giáo sư Phạm Trần Vũ cho hay.

Nhằm giải quyết bài toán về nguồn nhân lực, thầy Vũ cho rằng, cần xây dựng cơ chế đãi ngộ đặc thù, bảo đảm mức thu nhập đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Song song đó, cần trao quyền tự chủ trong tuyển dụng và áp dụng các hình thức hợp đồng linh hoạt, nhằm thu hút chuyên gia giỏi từ bất kỳ quốc gia nào, kể cả trong hình thức cộng tác dài hạn.
Thầy Vũ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đầu tư hệ thống hạ tầng nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế, phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh liên ngành gắn với các cụm công nghệ chiến lược như: AI; Bán dẫn - Vi mạch - Công nghệ 6G; Năng lượng tái tạo; Phương tiện tự hành - Robot; Công nghệ tính toán lượng tử… Bên cạnh đó, cần có chính sách hỗ trợ đời sống toàn diện cho chuyên gia (nhà ở, phúc lợi, điều kiện học tập và sinh hoạt cho gia đình) cùng với nguồn quỹ nghiên cứu ổn định từ Nhà nước và doanh nghiệp, để các nhà khoa học yên tâm gắn bó lâu dài.
Còn theo Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang Hưng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Cơ bản và Ứng dụng, Đại học Duy Tân cho biết, nhà trường đã xây dựng một cấu trúc nghiên cứu tương đối hoàn chỉnh với 7 viện nghiên cứu/trung tâm công nghệ chuyên ngành, thể hiện định hướng phát triển đa lĩnh vực.
Trong đó, Viện Nghiên cứu Khoa học Cơ bản và Ứng dụng đóng vai trò trụ cột trong lĩnh vực khoa học nền tảng, tập trung vào các ngành then chốt như Toán học, Vật lý, Vật liệu điện hóa, Vật liệu chức năng,...cùng những hướng công nghệ mới nổi như 5G và 6G. Đây là một định hướng có ý nghĩa chiến lược bởi các lĩnh vực này vừa tạo nền móng cho các ứng dụng công nghệ cao, vừa giúp trường tham gia vào những xu hướng nghiên cứu quốc tế.
Về nhân lực, Viện hiện có 1 giáo sư, 1 phó giáo sư, 22 tiến sĩ và khoảng 15 nghiên cứu sinh. Tuy vậy, lực lượng này vẫn còn khá khiêm tốn so với yêu cầu phát triển của ngành. Đây không chỉ là thách thức riêng của Đại học Duy Tân mà còn là thực trạng chung của phần lớn cơ sở giáo dục và nghiên cứu tại Việt Nam.
Số lượng chuyên gia đầu ngành còn ít, trong khi thị trường lao động cạnh tranh khốc liệt khiến việc thu hút và giữ chân nhân tài trở nên khó khăn. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng dẫn dắt các hướng nghiên cứu mới và duy trì vị thế trong lĩnh vực.

“Đối với nghiên cứu khoa học cơ bản, nguồn đầu tư của Nhà nước cho Đại học Duy Tân chủ yếu qua các đề tài thuộc quỹ khoa học - công nghệ. Ngoài ra, trường cũng dành một phần kinh phí để hỗ trợ các nhóm nghiên cứu. Tuy nhiên, mức hỗ trợ này chưa đủ để đáp ứng nhu cầu của những công trình nghiên cứu chuyên sâu; ngay cả ở các trường lớn, kinh phí cũng luôn là một thách thức. Tình trạng hiện nay là “liệu cơm gắp mắm” - có bao nhiêu làm bấy nhiêu, tận dụng tối đa năng lực và nguồn lực sẵn có.
Về hạ tầng, những thiết bị trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu và buộc phải trông chờ vào hợp tác với các viện nghiên cứu hoặc cơ sở có trang thiết bị hiện đại ở nước ngoài.
Đại học Duy Tân hiện có cơ chế hỗ trợ giảng viên hàng năm ra nước ngoài để thực hiện thí nghiệm và tiếp cận công nghệ mới. Cách làm này mang lại nhiều thuận lợi, giúp giảng viên cập nhật hướng nghiên cứu mới, tiếp cận trang thiết bị tiên tiến, học hỏi quy trình và công nghệ mà đối tác đang triển khai. Các đề tài nghiên cứu thường do chính các nhóm trong nước đề xuất, sau đó phối hợp với nhóm đối tác nước ngoài để tận dụng thế mạnh về thiết bị và chuyên môn.
Hợp tác quốc tế nhìn chung khá thuận lợi nhờ vào việc nhà trường đã ký kết nhiều biên bản ghi nhớ (MOU) với nhiều trường đại học nước ngoài. Trong nước, Đại học Duy Tân cũng hợp tác với nhiều đơn vị nghiên cứu lớn như Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Tuy nhiên, khó khăn thường nảy sinh ở khâu triển khai đề tài, đặc biệt là phần kinh phí đối ứng giữa các bên. Một số hạng mục như thuê thiết bị, dịch vụ phân tích hoặc các phép thử chuyên sâu thuộc dạng “dịch vụ ngoài” thường gặp trở ngại trong thanh quyết toán do quy định tài chính còn nhiều ràng buộc, chưa theo kịp nhu cầu thực tế của nghiên cứu khoa học”, thầy Hưng cho biết.
Cần đầu tư theo cụm công nghệ chiến lược và hệ thống cơ sở vật chất dùng chung
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quang Hưng cho rằng, để các trường đại học thực sự trở thành chủ thể nghiên cứu mạnh như mục tiêu Nghị quyết 57 đề ra, một giải pháp quan trọng là xây dựng hệ thống trung tâm nghiên cứu dùng chung tại cả ba miền Bắc - Trung - Nam.
“Các trung tâm này sẽ được trang bị đồng bộ các thiết bị hiện đại nhất, phục vụ cho mọi đơn vị có nhu cầu nghiên cứu, từ trường đại học cho tới viện nghiên cứu. Nguồn kinh phí vận hành sẽ đến từ một quỹ chung do Nhà nước thành lập.
Chẳng hạn khi một nhóm nghiên cứu cần sử dụng thiết bị ở trung tâm miền Trung, họ sẽ đăng ký thông qua quỹ này, sử dụng nguồn kinh phí được cấp để chi trả cho việc vận hành và khai thác thiết bị. Mô hình này không chỉ tối ưu hóa việc sử dụng cơ sở vật chất mà còn giúp khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải. Đây cũng là một giải pháp đã được nhiều quốc gia áp dụng thành công.
Bên cạnh hạ tầng, cơ chế tài chính cũng là yếu tố then chốt. Theo tôi, cần “giải phóng” các nhà khoa học khỏi những thủ tục rườm rà, cho phép họ tập trung toàn lực vào nghiên cứu. Cơ chế hiện hành buộc nhiều nhà khoa học phải có sẵn kết quả nhất định mới dám đăng ký đề tài, khiến họ ngại theo đuổi những hướng nghiên cứu dài hơi, đột phá.
Giải pháp được đưa ra là thiết lập các chương trình đầu tư dài hạn từ 5 đến 10 năm cho những nhóm nghiên cứu dám mạo hiểm theo đuổi công nghệ mới, chấp nhận rủi ro, với mục tiêu cuối cùng là làm chủ công nghệ. Điều này đòi hỏi một tầm nhìn chiến lược. Có thể trong 10 nhóm được đầu tư, chỉ 2 nhóm có thể tạo ra công nghệ đột phá nhưng những thành tựu này đủ sức nâng vị thế khoa học - công nghệ của quốc gia”, thầy Hưng nêu quan điểm.

Bàn về vấn đề này, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trần Vũ, cần tập trung đầu tư theo các cụm công nghệ chiến lược, qua đó hình thành những phòng thí nghiệm chuyên sâu và trung tâm nghiên cứu xuất sắc đủ khả năng cạnh tranh học thuật trong khu vực. Ngoài ra, cần thiết lập quỹ nghiên cứu cạnh tranh ở cấp quốc gia và cấp Bộ/ngành, cho phép các trường tiếp cận nguồn vốn lớn, dài hạn cho các chương trình R&D đa ngành, đột phá.
Hợp tác công tư nên được đẩy mạnh thông qua ưu đãi thuế, đồng tài trợ dự án giữa nhà trường và doanh nghiệp, đặc biệt ở giai đoạn thử nghiệm, thương mại hóa. Mặt khác, cơ chế chia sẻ lợi ích hợp lý giữa nhà khoa học - trường đại học - doanh nghiệp sẽ khuyến khích thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Việc “đặt hàng nghiên cứu” từ Nhà nước và doanh nghiệp cũng rất cần thiết, giúp gắn kết nghiên cứu với các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội cụ thể.
Bên cạnh đó, các cơ sở giáo dục đại học cũng cần không ngừng cập nhật, cải tiến chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế, được kiểm định bởi các tổ chức uy tín; đồng thời tăng tỷ trọng các môn học mới (AI, dữ liệu lớn, công nghệ số, bán dẫn…), đảm bảo việc cập nhật thường xuyên và tích hợp mạnh mẽ công nghệ số vào giảng dạy. Song song với đó, cần thường xuyên tổ chức tập huấn kỹ năng giảng dạy mới, hiện đại cho đội ngũ giảng viên, kết hợp với việc cải tiến quy trình quản lý đào tạo theo các chuẩn mực tiên tiến quốc tế.
Ngoài các nỗ lực nội bộ, việc tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo và nghiên cứu khoa học theo chiều sâu cũng đóng vai trò quan trọng, chẳng hạn như đồng thiết kế môn học, trao đổi giảng viên - sinh viên, công nhận tín chỉ, hay tuyển giảng viên uy tín nước ngoài tham gia giảng dạy. Đặc biệt, liên kết quốc tế với các trường đại học tiên tiến trên thế giới để triển khai các chương trình thuộc các lĩnh vực trọng điểm cần được xem là ưu tiên chiến lược.
Hơn hết, các cơ sở giáo dục đại học nên đẩy mạnh triển khai các hoạt động đào tạo gắn với nghiên cứu và thực tiễn doanh nghiệp. Qua đó, sinh viên sẽ được khuyến khích tham gia trực tiếp vào các dự án R&D hoặc làm việc tại các phòng lab đặt ngay trong trường, giúp nâng cao năng lực thực hành và khả năng ứng dụng kiến thức.