Quy định riêng một điều về trường, khoa, đơn vị đào tạo của CSGDĐH: Cơ hội và thách thức

01/09/2025 07:31
Đình Nam
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Việc dự thảo Luật Giáo dục đại học sửa đổi tách quy định về trường, khoa và đơn vị đào tạo thành một điều riêng được lãnh đạo cơ sở giáo dục ủng hộ.

Dự thảo Luật Giáo dục đại học sửa đổi (bản dự thảo ngày 25/7/2025) đã quy định riêng một điều về "trường, khoa và đơn vị đào tạo" như sau:

Điều 17. Trường, khoa và đơn vị đào tạo

1. Trường thuộc cơ sở giáo dục đại học được phân cấp quản lý, đáp ứng điều kiện hoạt động của một tổ chức khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật.

2. Trường, khoa, đơn vị đào tạo trong cơ sở giáo dục đại học trực tiếp tổ chức đào tạo, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo và phục vụ cộng đồng trong phạm vi ngành, lĩnh vực theo chức năng, nhiệm vụ được phân công.

3. Trường, khoa, đơn vị đào tạo trong cơ sở giáo dục đại học được thành lập trên cơ sở liên kết, hợp tác với cơ sở giáo dục đại học nước ngoài theo quy định của pháp luật.

4. Việc thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể, phân cấp quản lý đối với trường, khoa và đơn vị đào tạo thực hiện theo quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học, phù hợp với quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.

Theo lãnh đạo một số cơ sở giáo dục đại học, đây là một điểm đổi mới phản ánh xu hướng tăng cường phân quyền và làm rõ cấu trúc nội bộ trong các cơ sở giáo dục đại học.

Việc tách quy định về trường, khoa và đơn vị đào tạo thành một điều riêng giúp làm rõ địa vị pháp lý, chức năng, quyền hạn và phạm vi hoạt động của các đơn vị chuyên môn trong cơ sở giáo dục đại học. So với luật hiện hành vốn chỉ nêu lồng ghép trong điều về cơ cấu tổ chức, cách quy định mới này tạo cơ sở pháp lý minh bạch, giúp tăng cường hiệu lực quản lý nội bộ và tự chủ tổ chức trong từng đơn vị.

Tăng cường tính tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của từng đơn vị

Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quang - Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên cho rằng, việc quy định rõ chức năng đào tạo và nghiên cứu của các đơn vị sẽ mang lại cả tác động tích cực lẫn thách thức đối với chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học của nhà trường.

Về mặt tích cực, đối với hoạt động giảng dạy, quy định này giúp các đơn vị được phân cấp quản lý, chủ động quyết định mở ngành, tuyển sinh và xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu xã hội cũng như xu thế công nghệ mới.

Điều đó khuyến khích giảng viên đổi mới phương pháp giảng dạy, hướng tới các chương trình đạt chuẩn quốc tế, nâng cao chất lượng đầu ra cho sinh viên. Bên cạnh đó, việc tăng cường liên kết với các cơ sở giáo dục nước ngoài còn giúp thu hút chuyên gia quốc tế, mở rộng trao đổi kinh nghiệm và nguồn lực.

image.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quang - Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên. Ảnh: website nhà trường

Đối với nghiên cứu khoa học, sinh viên và giảng viên sẽ có nhiều cơ hội tham gia vào các dự án, đề tài ngay trong quá trình học, từ đó nâng cao năng lực nghiên cứu và khả năng ứng dụng. Các kết quả nghiên cứu cũng sẽ gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu cộng đồng, góp phần giải quyết những vấn đề thực tiễn, đồng thời nâng cao uy tín và vị thế của nhà trường.

Tuy nhiên, điều này vẫn tồn tại những thách thức và hạn chế riêng. Trước hết, giảng viên phải đồng thời đảm bảo nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và phục vụ cộng đồng. Nếu thiếu cơ chế hỗ trợ về thời gian, tài chính và nhân lực, họ dễ bị quá tải, ảnh hưởng đến chất lượng công việc.

Ngoài ra, sự khác biệt về cơ sở vật chất, đội ngũ và lĩnh vực chuyên môn giữa các đơn vị có thể làm gia tăng khoảng cách về chất lượng đào tạo và nghiên cứu, khiến các ngành ít “hot” hoặc đơn vị quy mô nhỏ bị tụt lại phía sau.

Một rủi ro khác là tình trạng hình thức hóa nhiệm vụ, khi một số đơn vị chỉ làm đủ thủ tục báo cáo mà không tạo ra kết quả nghiên cứu hoặc đổi mới sáng tạo thực chất, dẫn đến số lượng công bố nhiều nhưng chất lượng thấp.

Đồng thời, quyền tự chủ của các khoa, viện, trung tâm có thể xung đột với cơ chế quản lý tập trung của trường về kinh phí, nhân sự hoặc hợp tác đối ngoại, nếu thiếu quy chế phối hợp rõ ràng.

Cuối cùng, không phải đơn vị nào cũng đủ năng lực ngoại ngữ, nhân lực và tài chính để hội nhập quốc tế, dẫn đến nguy cơ mất cân bằng trong quá trình này.

Dù vậy, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quang, việc tách riêng quy định về trường, khoa và đơn vị đào tạo thành một điều riêng trong luật sẽ góp phần khắc phục nhiều bất cập trong tổ chức và vận hành hiện nay.

“Trước hết, điều này giúp phân định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm giữa các cấp quản lý, đặc biệt là quyền tự chủ trong tuyển sinh, xây dựng chương trình đào tạo, tuyển dụng nhân sự và quản lý tài chính.

Bên cạnh đó, các quy định riêng về trách nhiệm pháp lý của từng cấp trong bảo đảm chất lượng đào tạo, nghiên cứu và sử dụng nguồn lực sẽ hạn chế tình trạng đùn đẩy trách nhiệm.

Không những vậy, quy định riêng sẽ tạo điều kiện để từng đơn vị tăng tính linh hoạt và hiệu quả quản trị, cho phép phân cấp quản lý sâu hơn, cũng như linh hoạt điều chỉnh chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu xã hội.

Những khoa hoặc viện nghiên cứu có thế mạnh có thể phát triển thành đơn vị đầu ngành, giữ vai trò dẫn dắt trong nghiên cứu hoặc đào tạo quốc tế.

Quy định này còn giúp tăng cường trách nhiệm giải trình, bảo đảm mọi hoạt động được thực hiện minh bạch, hiệu quả và đúng định hướng phát triển của nhà trường”, Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên nhận định.

Đồng quan điểm, Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng quy định mới trong dự thảo xác định rõ cấu trúc tổ chức của cơ sở giáo dục đại học, với trường, khoa và đơn vị đào tạo… Các đơn vị này đều là bộ phận cấu thành của một trường hoặc một đại học.

526618868-1211717517422392-2244565605727157193-n.jpg
Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: website nhà trường

“Theo tinh thần của luật, trong thời gian tới nhà trường cũng sẽ đổi mới hướng tới trọng tâm là nâng cao quyền tự chủ gắn liền với trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học, cùng với yêu cầu đổi mới quản trị theo hướng tinh gọn, hiện đại và số hóa.

Tự chủ không chỉ giới hạn ở phạm vi từng đơn vị mà phải lan tỏa đến mọi cấp, từ giảng viên, chuyên viên, phòng ban cho đến bộ môn. Quan niệm về tự chủ cũng cần được mở rộng: tự chủ đồng nghĩa với tự chịu trách nhiệm trước quyền hạn và nhiệm vụ của mình”, Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội bày tỏ.

Mở ra nhiều cơ hội hợp tác trong đào tạo và nghiên cứu khoa học

Về khía cạnh phân cấp quản lý và liên kết đào tạo - nghiên cứu, theo Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình, quy định này có thể mở ra nhiều cơ hội hợp tác cho các khoa, viện, đơn vị đào tạo,...

Việc tăng tính tự chủ ở các cấp liên quan trong cơ sở giáo dục đại học bao gồm cả tự chủ học thuật và tự chủ trong các hoạt động chung, sẽ tạo điều kiện để từng đơn vị chủ động kết nối, triển khai hợp tác. Từ góc nhìn quản lý, hiện có hai hình thức hợp tác phổ biến.

Thứ nhất là hợp tác đào tạo liên kết, trong đó các cơ sở giáo dục Việt Nam phối hợp với đối tác nước ngoài để đưa chương trình và phương pháp giảng dạy quốc tế vào trong nước, khắc phục hạn chế về nội dung, phương pháp, thực hành và cơ sở vật chất.

Thứ hai là hợp tác song phương trong đào tạo hoặc nghiên cứu, khi hai bên cùng chia sẻ thế mạnh để thực hiện nhiệm vụ chung.

Hình thức thứ hai mang tính cân bằng và bền vững hơn, cần được thúc đẩy mạnh mẽ; trong khi hình thức thứ nhất cũng cần được quản lý chặt chẽ, chỉ hợp tác với những chương trình đảm bảo chất lượng, đáp ứng chuẩn đầu ra theo yêu cầu.

526130590-1213309110596566-6759023384984181080-n.jpg
Sinh viên Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội trao đổi kiến thức về Khoa học máy tính và Trí tuệ nhân tạo với sinh viên Đại học South Wales, Vương quốc Anh. Ảnh: website nhà trường

“Tự chủ cũng đồng nghĩa với việc các đơn vị chuyên môn có thể chủ động tìm kiếm nguồn lực và triển khai dự án. Trước đây, việc xin phép và thực hiện thủ tục hành chính nhiều tầng nấc tạo rào cản cho sự phát triển. Nếu các thủ tục này được gỡ bỏ, từ cấp bộ môn đến khoa và trường đều có thể linh hoạt xây dựng và triển khai hợp tác mà không gặp trở ngại đáng kể.

Để đảm bảo hiệu quả khi áp dụng quy định mới, cần xây dựng một hệ thống quy định và tiêu chuẩn thống nhất, bám sát chuẩn đầu ra của từng hoạt động. Từ đó, nhà trường có thể không chỉ giám sát mà còn thiết lập khuôn khổ pháp lý rõ ràng, giúp các đơn vị thực hiện đúng định hướng.

Riêng với Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, việc phân cấp, phân quyền và áp dụng cơ chế tự chủ đã được triển khai mạnh mẽ trong thời gian qua, nhờ vậy không xuất hiện những bất cập lớn trong công tác quản trị giữa nhà trường, khoa và bộ môn”, Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình cho hay.

Đồng quan điểm, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quang cho rằng quy định mới giúp các cơ hội hợp tác được mở ra trên nhiều phương diện, từ đào tạo, nghiên cứu khoa học đến quản lý và tài chính.

Trong lĩnh vực đào tạo, việc mở rộng chương trình liên kết quốc tế cho phép các khoa, viện được tự chủ thiết kế và triển khai chương trình ở bậc đại học, thạc sĩ, tiến sĩ với cở sở giáo dục nước ngoài. Bên cạnh đó, việc phát triển các chương trình song bằng hoặc bằng kép với những đơn vị uy tín trên thế giới sẽ giúp bằng cấp của người học được công nhận quốc tế, nâng cao vị thế khi bước ra thị trường lao động.

Hình thức đào tạo trực tuyến cũng được đẩy mạnh nhằm mở rộng cơ hội tiếp cận cho học viên quốc tế hoặc ở vùng sâu, vùng xa, đồng thời giảm chi phí cơ sở vật chất. Các khoa, viện còn có thể chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch, phương thức tuyển sinh linh hoạt, cũng như áp dụng cơ chế công nhận tín chỉ phù hợp.

Trong nghiên cứu khoa học, các đơn vị được khuyến khích hợp tác với trường đại học, viện nghiên cứu nước ngoài để thực hiện dự án khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Nguồn lực từ hợp tác quốc tế có thể hỗ trợ giảng viên, nghiên cứu sinh công bố công trình trên các tạp chí quốc tế, góp phần nâng cao thứ hạng của nhà trường. Việc hợp tác với doanh nghiệp và tổ chức quốc tế cũng tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển giao công nghệ và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.

Ở khía cạnh quản lý và phân cấp, tăng quyền tự chủ cho các khoa, đơn vị đào tạo sẽ giúp họ xây dựng những chương trình đào tạo chuyên biệt, đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường lao động. Đồng thời, việc tuyển dụng giảng viên nước ngoài hoặc chuyên gia có trình độ cao sẽ nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu.

Về tài chính, các khoa, viện có thể huy động nguồn lực từ học phí, các chương trình liên kết, kinh phí tài trợ cho nghiên cứu hoặc hợp tác với doanh nghiệp quốc tế, qua đó thu hút thêm các khoản đầu tư và tài trợ.

Cần có cơ chế quản lý, giám sát và hỗ trợ để đảm bảo hoạt động hiệu quả

Để đảm bảo các đơn vị chuyên môn hoạt động hiệu quả khi được xác định rõ địa vị pháp lý, quyền hạn và chức năng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quang nhấn mạnh nhà trường cần triển khai đồng bộ cơ chế quản lý, giám sát và hỗ trợ, bảo đảm hoạt động hiệu quả và tuân thủ pháp luật.

Về cơ chế quản lý, trước hết, nhà trường cần rà soát toàn bộ văn bản quản lý nội bộ, ban hành quy chế tổ chức và hoạt động, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm giải trình của từng đơn vị chuyên môn.

Đồng thời, cần phân cấp quản lý hợp lý để tránh chồng chéo, chậm trễ trong ra quyết định; ban hành quy chế chi tiêu nội bộ và các quy định liên quan; thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, bảo đảm sự liên thông và hỗ trợ lẫn nhau.

Về cơ chế giám sát, nhà trường cần xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá (KPI) cho mọi lĩnh vực như đào tạo, tuyển sinh, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, hợp tác doanh nghiệp, kiểm định…

492503920-1240067194786433-4068160542127263189-n.jpg
Giảng viên và sinh viên Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên trong giờ thực hành. Ảnh: website nhà trường

Việc giám sát phải tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, đồng thời ngăn ngừa lạm quyền. Hoạt động kiểm tra định kỳ, báo cáo chuyên môn và tài chính, cùng với hệ thống quản lý điều hành, sẽ giúp phát hiện sớm các vấn đề như chậm tiến độ hoặc sử dụng ngân sách kém hiệu quả.

Về cơ chế hỗ trợ, do các đơn vị đào tạo không có tư cách pháp nhân, nhà trường đóng vai trò trung tâm trong việc cung cấp nguồn lực và chính sách. Hỗ trợ tài chính và cơ sở vật chất cần được chú trọng, với việc tận dụng nguồn ngân sách nhà nước cho các chương trình đào tạo chất lượng cao, cho phép trường tự quyết mức học phí để bù chi phí và tái đầu tư.

Nhà trường cũng nên khuyến khích hợp tác với doanh nghiệp để thu hút tài trợ, đặc biệt trong nghiên cứu ứng dụng và liên kết đào tạo, đồng thời hỗ trợ xử lý khó khăn khi các đơn vị không thể huy động tài trợ độc lập.

Trong quản trị, tổ chức và nhân sự, nhà trường cần đào tạo đội ngũ lãnh đạo, quản lý theo hướng hiện đại, tăng cường phát triển nhân lực chất lượng cao, cải thiện chế độ đãi ngộ và tạo cơ chế tự chủ trong tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc chấm dứt hợp đồng.

Cùng với đó, nhà trường cần hỗ trợ từng đơn vị chuyên môn ký kết hợp tác với các cơ sở giáo dục nước ngoài, thực hiện thủ tục pháp lý, đàm phán, quản lý dự án liên kết, cũng như thúc đẩy hoạt động trao đổi giảng viên, sinh viên và nghiên cứu chung, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu.

Đình Nam