Trong xu thế toàn cầu hóa giáo dục, hợp tác quốc tế được xem là động lực quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và uy tín của các cơ sở giáo dục Việt Nam trên trường quốc tế.
Chính vì vậy, tại Hội nghị tập huấn công tác hợp tác quốc tế và thông tin đối ngoại trong giáo dục và đào tạo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thu Thủy - Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đặc biệt nhấn mạnh nội dung: “Đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu có trên 20% chương trình liên kết đào tạo với các cơ sở giáo dục thuộc nhóm 500 trường đại học hàng đầu thế giới”.
Đại học Việt Nam hướng tới môi trường học tập quốc tế thực chất
Đánh giá về nội dung này, Tiến sĩ Nguyễn Long Khánh - Viện trưởng Viện Đào tạo và Hợp tác Quốc tế, Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải cho rằng, trong bối cảnh Chính phủ đẩy mạnh phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo là yêu cầu tất yếu đối với các cơ sở giáo dục đại học.
Cụ thể, Chính phủ đã đề ra nhiều mục tiêu thúc đẩy hợp tác quốc tế như đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai, thu hút giảng viên nước ngoài và trí thức Việt kiều tham gia giảng dạy, qua đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và yếu tố quốc tế trong các trường đại học.
Chưa kể, theo Quyết định số 374/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển hệ thống trung tâm đào tạo xuất sắc và tài năng về công nghệ 4.0 đến năm 2030, một số trường đại học đã được giao làm đầu mối dẫn dắt các lĩnh vực trọng điểm. Trong đó, Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải được giao phụ trách lĩnh vực Giao thông thông minh và Hạ tầng tiên tiến.
Tuy nhiên, thực tế những lĩnh vực đòi hỏi trình độ công nghệ hiện đại thì Việt Nam vẫn chưa thể tự chủ hoàn toàn. Do đó, hợp tác quốc tế là yếu tố bắt buộc để tiếp nhận công nghệ mà còn để đào tạo, vận hành và làm chủ kỹ thuật trong tương lai.
Đối với cơ sở giáo dục đại học, việc phát triển các chương trình liên kết đào tạo quốc tế được xem là “chìa khóa” quan trọng, vừa giúp thu hút chuyên gia, giảng viên nước ngoài đến Việt Nam, vừa tạo cơ hội cho sinh viên được học tập bằng tiếng Anh thông qua các mô hình đào tạo.
Những chương trình này không chỉ giúp sinh viên nâng cao năng lực ngoại ngữ và khả năng hội nhập, mà còn thúc đẩy đội ngũ giảng viên trong nước chủ động nâng cao trình độ ngoại ngữ và phương pháp giảng dạy theo chuẩn quốc tế.
“Hiện nay, Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải đang triển khai 2 chương trình liên kết là ngành Công nghệ thông tin và ngành Logistics, Quản lý chuỗi cung ứng. Bên cạnh đó, nhà trường đang tiếp tục mở rộng hợp tác với các trường đại học uy tín của Pháp, Hàn Quốc và Úc để xây dựng thêm các chương trình liên kết trong những lĩnh vực trọng điểm như hạ tầng, giao thông thông minh”, thầy Khánh thông tin.

Tại Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng hệ sinh thái đào tạo quốc tế toàn diện, không chỉ qua các chương trình liên kết mà còn mở rộng nhiều mô hình hợp tác đa dạng.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Đăng Tùng - Giám đốc Văn phòng Đào tạo Quốc tế nhà trường cho biết, nhà trường hiện hợp tác với hơn 150 trường và tổ chức uy tín trên thế giới, chủ yếu đến từ Đức, Úc, Mỹ, Nhật Bản và New Zealand. Năm 2025, trường tuyển sinh 25 ngành dạy bằng tiếng Anh, 14 ngành chuyển tiếp quốc tế và 3 ngành liên kết với các đại học hàng đầu thế giới.
Đáng chú ý, trường tiên phong triển khai mô hình giáo dục xuyên quốc gia. Ở bậc đại học, trường liên kết với Đại học Công nghệ Sydney (UTS, Úc) đào tạo ngành Trí tuệ nhân tạo và Công nghệ thông tin theo chương trình của UTS, học hoàn toàn tại Việt Nam và nhận bằng cấp do UTS cấp.
Ở bậc cao học, trường hợp tác với Đại học Kühne Logistics (Đức) đào tạo Thạc sĩ ngành Logistics và Quản lý chuỗi cung ứng toàn cầu.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Đăng Tùng, hiệu quả của các chương trình liên kết quốc tế tại Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được đánh giá toàn diện, không chỉ ở quy mô tuyển sinh mà còn ở mức độ hội nhập, chất lượng đào tạo và tác động thực tiễn.
Các chương trình đều được đối tác và tổ chức kiểm định quốc tế uy tín công nhận như AUN-QA, ABET, ASIIN…, sử dụng chương trình nguyên bản từ những đại học hàng đầu thế giới như UTS (Úc) hay Illinois Urbana-Champaign (Mỹ). Đây là sự khẳng định cho chất lượng học thuật và năng lực hội nhập quốc tế của nhà trường.
Thứ hai, trường không chỉ “nhập khẩu” chương trình mà còn xây dựng môi trường học tập quốc tế ngay tại Việt Nam, với 4–6 học phần do giảng viên nước ngoài trực tiếp giảng dạy. Sinh viên có thể lựa chọn nhiều lộ trình linh hoạt như chương trình chuyển tiếp quốc tế 2+2, 2+2.5 hoặc học hoàn toàn tại Việt Nam nhưng nhận bằng quốc tế từ UTS (Úc) hay KLU (Đức).
Mô hình này giúp người học tiếp cận nền giáo dục chất lượng cao với chi phí hợp lý, đồng thời phù hợp với định hướng hợp tác quốc tế theo chiều sâu mà nhà trường đang theo đuổi.
“Nhờ những lợi thế đó, sinh viên tốt nghiệp các chương trình quốc tế của Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đều sở hữu “hồ sơ năng lực toàn cầu” vượt trội với kiến thức nền vững chắc, chuyên môn hiện đại, khả năng tiếng Anh học thuật (IELTS 6.0–6.5 trở lên) và các kỹ năng mềm như tư duy phản biện, làm việc nhóm, thích ứng đa văn hóa.
Trên thực tế, sinh viên các chương trình liên kết quốc tế của nhà trường luôn được các doanh nghiệp lớn như Intel, Bosch, Renesas, Mitsubishi, Unilever… săn đón. Tỷ lệ có việc làm sau tốt nghiệp luôn đạt mức rất cao, trong đó chương trình chuyển tiếp Nhật Bản đạt tới 99,5%”, thầy Tùng cho hay.

Cần thước đo và cầu nối để cơ sở giáo dục đại học dễ dàng hợp tác
Từ những hiệu quả thực tế mà các chương trình liên kết quốc tế mang lại, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Đăng Tùng cho rằng, mục tiêu “đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu có trên 20% chương trình liên kết đào tạo với các cơ sở giáo dục thuộc nhóm 500 trường đại học hàng đầu thế giới” là hoàn toàn đúng đắn và cấp thiết.
Theo thầy, trong bối cảnh tri thức và công nghệ ngày càng trở thành yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia, việc hợp tác với các trường đại học hàng đầu không chỉ giúp Việt Nam tiếp cận nhanh hơn với chương trình và phương pháp đào tạo tiên tiến, mà còn mở ra cơ hội nâng cao năng lực nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.
Mục tiêu này cũng phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Tại Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, nhà trường không xem mục tiêu này là điều mới mẻ, mà là sự khẳng định và tăng tốc trên con đường quốc tế hóa giáo dục mà trường đã kiên định theo đuổi nhiều năm qua.
Bởi thực tế, trong mạng lưới hơn 150 đối tác quốc tế của trường, đã có nhiều đại học nằm trong top 1% các cơ sở giáo dục hàng đầu thế giới.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Đăng Tùng, thuận lợi lớn nhất hiện nay là chủ trương quốc tế hóa giáo dục và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao luôn được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hành lang chính sách ngày càng thông thoáng giúp các trường đại học mạnh dạn hội nhập sâu rộng.
Hơn hết, với lịch sử phát triển lâu dài, uy tín thương hiệu và mạng lưới cựu sinh viên thành đạt trên toàn cầu, nhà trường tự tin có “vốn xã hội” quý báu để tạo dựng niềm tin với các đối tác danh tiếng. Cùng với đó, nhận thức xã hội về giá trị của giáo dục chuẩn quốc tế ngày càng cao, tạo thêm “lực đẩy” để trường đầu tư phát triển các chương trình liên kết chất lượng.
Tuy nhiên, thách thức đặt ra cũng không nhỏ khi Việt Nam hiện phải cạnh tranh gay gắt với các quốc gia trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thái Lan trong việc thu hút đối tác và sinh viên quốc tế. Việc vận hành chương trình đạt chuẩn quốc tế đòi hỏi chi phí lớn cho cơ sở vật chất, học liệu và đội ngũ giảng viên nước ngoài, trong khi học phí vẫn là rào cản với nhiều người học.
Ngoài ra, sự khác biệt về quy định học thuật, kiểm định, công nhận tín chỉ giữa Việt Nam và các nước đối tác vẫn cần được tiếp tục hài hòa để tạo thuận lợi hơn trong hợp tác.

Để thu hút thêm các trường thuộc top 500 thế giới tham gia hợp tác, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Đăng Tùng cho rằng Việt Nam cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý linh hoạt và tiệm cận chuẩn quốc tế trong lĩnh vực giáo dục đại học, đặc biệt ở các khía cạnh cơ chế tuyển sinh, cấp bằng và quyền tự chủ học thuật. Các trường cần được trao quyền chủ động trong việc xây dựng chương trình, lựa chọn đối tác và mời giảng viên quốc tế, miễn là đảm bảo chất lượng theo cam kết.
Bên cạnh đó, hệ thống công nhận tín chỉ linh hoạt và minh bạch cũng là yếu tố then chốt để thúc đẩy dịch chuyển sinh viên giữa Việt Nam và các quốc gia. Khi việc chuyển đổi, công nhận tín chỉ trở nên thông suốt, sinh viên sẽ thuận lợi hơn trong học tập, còn đối tác quốc tế sẽ nhìn thấy sự chuyên nghiệp và hội nhập của giáo dục Việt Nam.
Theo thầy Tùng, Việt Nam cần đẩy mạnh chính sách hỗ trợ và quảng bá quốc gia. Chính phủ nên có chương trình đầu tư trọng điểm giúp các trường đại học hàng đầu nâng cấp cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế. Đồng thời triển khai chiến lược quảng bá tổng thể, xây dựng thương hiệu “Study in Vietnam” - một điểm đến giáo dục uy tín, hấp dẫn đối với sinh viên và học giả toàn cầu.
“Xác định quốc tế hóa là con đường tất yếu, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tập trung nâng cấp các mối quan hệ hợp tác lên tầm chiến lược, coi việc đạt kiểm định quốc tế uy tín (ABET, ASIIN, HCERES...) là điều kiện tiên quyết. Cũng như đẩy mạnh thu hút giảng viên quốc tế, tăng cường trao đổi sinh viên và mở rộng các dự án nghiên cứu chung với nước ngoài.
Với định hướng rõ ràng và đầu tư bài bản, nhà trường tự tin khẳng định quyết tâm tiên phong đóng góp thực chất vào việc hiện thực hóa mục tiêu chiến lược của ngành giáo dục Việt Nam”, thầy Tùng nhấn mạnh.
Trong khi đó, theo Tiến sĩ Nguyễn Long Khánh, việc tìm kiếm và thiết lập quan hệ hợp tác với các trường đại học uy tín thuộc top 500 thế giới hiện nay vẫn là thách thức lớn đối với nhiều cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ sự chênh lệch về xếp hạng, danh tiếng và năng lực nghiên cứu, khiến quá trình đàm phán, triển khai chương trình liên kết đi vào thực tiễn còn gặp nhiều trở ngại.
Để khắc phục hạn chế này và thu hút được các đối tác quốc tế hàng đầu, thầy Khánh cho rằng Việt Nam cần xây dựng một bảng xếp hạng quốc gia chính thức cho các trường đại học, dựa trên các tiêu chí cụ thể do Chính phủ quy định. Đây sẽ là thước đo khách quan phản ánh chất lượng đào tạo, uy tín học thuật và năng lực nghiên cứu của từng cơ sở giáo dục.
Bên cạnh đó, cần thành lập một đơn vị trung gian chuyên trách đóng vai trò cầu nối giữa các trường đại học Việt Nam và các trường top 500 thế giới. Đơn vị này có thể hỗ trợ việc đối sánh năng lực, giới thiệu đối tác phù hợp tùy theo lĩnh vực hợp tác, giúp quá trình kết nối trở nên nhanh chóng, hiệu quả và tin cậy hơn.
“Nhờ đó, các trường đại học Việt Nam sẽ có định hướng phát triển rõ ràng, còn các trường quốc tế cũng có cơ sở lựa chọn đối tác phù hợp, thúc đẩy các chương trình hợp tác thực chất và bền vững”, thầy Khánh nêu quan điểm.