Nhân ngày Chuyển đổi số quốc gia, lắng nghe chia sẻ của Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam

09/10/2025 06:31
Hồng Mai
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Theo GS.TS Trần Tuấn Anh, Nghị quyết số 57-NQ/TW đã tạo ra 8 đột phá lớn trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây được xem là văn kiện mang tính chiến lược, khẳng định khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là ba trụ cột quyết định để đất nước vươn lên mạnh mẽ trong kỷ nguyên số. Với tầm nhìn chiến lược, nghị quyết không chỉ giải quyết những thách thức trước mắt mà còn định hình lộ trình dài hạn để xây dựng nền tảng phát triển khoa học và công nghệ bền vững.

Nhân Ngày Chuyển đổi số quốc gia 10/10, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Giáo sư, Tiến sĩ Trần Tuấn Anh - Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam về vai trò của Nghị quyết 57-NQ/TW trong việc tạo hành lang chính sách và động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học công nghệ và chuyển đổi số của Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình.

8 đột phá lớn trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Theo Giáo sư, Tiến sĩ Trần Tuấn Anh, trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nghị quyết số 57-NQ/TW đóng vai trò như kim chỉ nam trong việc định hướng các hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhằm đáp ứng các yêu cầu cấp thiết trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết xác định khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực then chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Tầm nhìn này phù hợp với xu thế phát triển toàn cầu, khi nhiều quốc gia tiên tiến xem đây là yếu tố quyết định để vượt qua thách thức, hướng tới phát triển bền vững và tự chủ về công nghệ.

Nghị quyết đề ra các cơ chế, chính sách mang tính đột phá, tập trung ưu tiên và khuyến khích phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo thông qua các giải pháp như đầu tư tài chính, phát triển nhân lực chất lượng cao, cải cách hành chính và thúc đẩy hợp tác công - tư. Điều này nhằm tháo gỡ những rào cản tồn tại trong hệ thống, tạo môi trường thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và cá nhân phát triển mạnh mẽ.

Cùng với đó, việc nhấn mạnh chuyển đổi số quốc gia thể hiện rõ nhận thức rằng Việt Nam cần tận dụng cơ hội từ công nghệ số để phát triển nhanh hơn, thu hẹp khoảng cách với các quốc gia phát triển.

Tầm nhìn chiến lược tập trung vào phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ và số hóa. Đồng thời, xây dựng một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo là yếu tố cần thiết để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và sáng tạo trong xã hội.

Nghị quyết cũng thể hiện sự nắm bắt kịp thời các xu thế toàn cầu, như toàn cầu hóa, chuyển dịch chuỗi cung ứng và tăng cường cạnh tranh công nghệ giữa các nước, thể hiện tính dự báo và thích ứng với xu thế toàn cầu, hội nhập quốc tế.

Việc đẩy mạnh hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở các cơ quan trong hệ thống chính trị và cả trong doanh nghiệp sẽ tạo sự đồng bộ, góp phần tạo điều kiện để Việt Nam tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đưa đất nước phát triển trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

288006831-1492801501155415-3895892444043466171-n-1993-2853.jpg
Giáo sư, Tiến sĩ Trần Tuấn Anh - Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Ảnh: NVCC

Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam nhấn mạnh: “Nghị quyết số 57-NQ/TW đã tạo ra nhiều đột phá lớn trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Thứ nhất, xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá chiến lược, là động lực chủ yếu cho phát triển quốc gia.

Thứ hai, đề ra mục tiêu rõ ràng, đến năm 2030, Việt Nam có năng lực khoa học - công nghệ tiên tiến, kinh tế số chiếm tỷ trọng lớn và hình thành các doanh nghiệp công nghệ mang tầm khu vực.

Thứ ba, tạo đột phá về thể chế, cho phép thí điểm cơ chế đặc thù, thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu, bảo hộ và khuyến khích sáng tạo.

Thứ tư, phát triển hạ tầng số hiện đại, bao gồm cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ tầng trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây, mạng 5G và bảo đảm an toàn thông tin.

Thứ năm, thúc đẩy doanh nghiệp công nghệ, coi doanh nghiệp là trung tâm của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Thứ sáu, phát triển và trọng dụng nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là nhân lực trẻ, tài năng số, với chính sách đãi ngộ linh hoạt, khuyến khích cống hiến.

Thứ bảy, đổi mới phương thức quản trị nhà nước, chuyển từ mô hình “quản lý” sang “quản trị thúc đẩy sáng tạo”.

Thứ tám, tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế, mở rộng liên kết trong nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ”.

Cơ hội lớn để Việt Nam bứt phá về năng suất, hiệu quả quản trị và năng lực cạnh tranh quốc gia

Nghị quyết số 57-NQ/TW đặt mục tiêu đến 2030: Phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, công nghiệp văn hoá số đạt mức cao của thế giới. Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu về an toàn, an ninh không gian mạng, an ninh dữ liệu và bảo vệ dữ liệu.

Theo Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, việc phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số và công nghiệp văn hóa số mở ra cơ hội lớn để Việt Nam bứt phá về năng suất, hiệu quả quản trị và năng lực cạnh tranh quốc gia.

Đồng thời, quá trình này góp phần mở rộng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư công nghệ cao và thúc đẩy hình thành đội ngũ nhân lực số, công dân số hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới.

Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình chuyển đổi số, như hạ tầng và năng lực số chưa đồng đều, thiếu khung pháp lý thống nhất về dữ liệu và an ninh mạng, cùng với hạn chế về nguồn nhân lực chất lượng cao.

Ngoài ra, nguy cơ tấn công mạng, rò rỉ dữ liệu và lan truyền tin giả ngày càng gia tăng, trong khi thói quen sử dụng dịch vụ truyền thống và nhận thức xã hội về an toàn số vẫn còn hạn chế. Đây là những rào cản cần sớm được tháo gỡ để Việt Nam có thể bứt phá, hướng tới mục tiêu nằm trong nhóm các quốc gia dẫn đầu thế giới về chuyển đổi số và an ninh mạng.

Để cụ thể hóa tinh thần và mục tiêu của Nghị quyết 57-NQ/TW, Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (có hiệu lực từ ngày 01/10/2025) ra đời thể hiện sự thay đổi căn bản trong tư duy phát triển, lần đầu tiên đưa đổi mới sáng tạo vào luật và đặt ngang hàng với khoa học công nghệ.

Luật này là bước triển khai pháp lý quan trọng, giúp Nghị quyết 57-NQ/TW đi vào thực tiễn, chuyển từ đột phá trong tư duy sang đột phá trong hành động. Qua đó, hình thành nền tảng thể chế vững chắc để thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phát triển thực chất, hiệu quả và bền vững.

“Theo tôi, Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo có 5 thay đổi căn bản. Trước hết, đưa “đổi mới sáng tạo” vào vị trí trung tâm, lần đầu tiên được đặt ngang hàng với khoa học và công nghệ, thể hiện tư duy phát triển mới.

Tiếp theo là chuyển từ quản lý sang kiến tạo, tập trung vào hiệu quả đầu ra, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu và ứng dụng.

Thứ ba, tăng quyền tự chủ và lợi ích cho các nhà khoa học, khuyến khích sáng tạo và cống hiến.

Thứ tư, ưu tiên đầu tư vào công nghệ lõi, công nghệ nền tảng và các phòng thí nghiệm trọng điểm.

Cuối cùng, mở rộng phạm vi đổi mới sáng tạo, bao gồm khởi nghiệp sáng tạo, mô hình kinh doanh, quy trình và sản phẩm mới, không giới hạn trong nghiên cứu thuần túy”, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Tuấn Anh nhận định.

t9-vast-day-manh-nghien-cuu.jpg
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đặt mục tiêu trở thành trụ cột quốc gia về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Ảnh minh họa: Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Vị giáo sư chia sẻ thêm, để cụ thể hóa các mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW, trong thời gian tới, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đặt mục tiêu trở thành trụ cột quốc gia về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, góp phần làm chủ công nghệ lõi, phát triển kinh tế tri thức và thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia.

Thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, Viện đã thành lập ban chỉ đạo, xây dựng kế hoạch triển khai cụ thể, tập trung vào sáu hướng trọng tâm.

Trước hết, hoàn thiện các quy định, quy chế quản lý, áp dụng mô hình quản lý theo kết quả đầu ra, thí điểm “sandbox khoa học” nhằm khuyến khích nghiên cứu sáng tạo.

Tiếp đến, xây dựng các chương trình nghiên cứu trọng điểm trong những lĩnh vực mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu mới, công nghệ sinh học, khoa học Trái đất và biển, năng lượng sạch, vũ trụ – viễn thám.

Cùng với đó, thúc đẩy hợp tác, tăng cường chuyển giao công nghệ giữa Viện với doanh nghiệp và địa phương, gắn nghiên cứu với thực tiễn phát triển.

Đồng thời, xây dựng hạ tầng và dữ liệu khoa học số, phục vụ chia sẻ, khai thác và ứng dụng kết quả nghiên cứu hiệu quả hơn.

Song song với đó, phát triển đội ngũ nhân lực khoa học trẻ, đồng thời thu hút chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia các dự án nghiên cứu.

Cuối cùng, tăng cường hội nhập quốc tế, chuẩn hóa phòng thí nghiệm, tham gia các mạng lưới nghiên cứu khu vực và toàn cầu, góp phần nâng cao vị thế của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế.

Hồng Mai