PGS.TS Lê Hoàng Sơn nêu 5 vấn đề cần ưu tiên để đột phá phát triển KHCN và chuyển đổi số

11/10/2025 07:09
Hồng Mai
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Theo PGS.TS Lê Hoàng Sơn, phát triển chính phủ điện tử và chính phủ số góp phần tăng cường niềm tin, hợp tác giữa cơ quan công quyền và người dân.

Chuyển đổi số không chỉ là xu hướng tất yếu mà còn là yêu cầu cấp thiết để Việt Nam thu hẹp khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hoàng Sơn - Phó Viện trưởng kiêm Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu tiên tiến quốc tế về trí tuệ nhân tạo ứng dụng, Viện Công nghệ Thông tin (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã chia sẻ về những cơ hội, thách thức và giải pháp để Việt Nam đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển trí tuệ nhân tạo, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia số vào năm 2030.

Việt Nam có nhiều lợi thế để tạo nên đột phá trong chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hoàng Sơn, ngày Chuyển đổi Số Quốc gia, được tổ chức vào ngày 10 tháng 10 hàng năm, nhấn mạnh sự coi trọng của Chính phủ đối với công nghệ số, coi đó là nền tảng cho sự phát triển đất nước.

Trong bối cảnh các công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI), bán dẫn, thiết kế vi mạch, phân tích dữ liệu, điện toán đám mây hay Blockchain đang định hình lại các ngành công nghiệp toàn cầu, Việt Nam cũng đang nỗ lực tận dụng những công nghệ này để nâng cao hiệu quả quản trị, cải thiện dịch vụ công và thúc đẩy phát triển bền vững.

Nước ta hiện có một hệ sinh thái công nghệ phát triển mạnh mẽ cùng lực lượng lao động lành nghề, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển phần mềm và hạ tầng công nghệ thông tin, tạo ra nhiều cơ hội cho tăng trưởng số. Điều này thể hiện rõ qua việc các công ty khởi nghiệp công nghệ Việt Nam thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài đáng kể như MoMo, VNPay, Zalo….

Bên cạnh đó, hoạt động nghiên cứu và phát triển các công nghệ mũi nhọn cũng đang được triển khai tại nhiều trường đại học hàng đầu trong nước như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bách khoa Hà Nội… với nhiều sản phẩm ứng dụng trong các lĩnh vực sức khỏe, giáo dục và môi trường.

Bên cạnh đó, Việt Nam có lợi thế về nguồn dân số trẻ và am hiểu công nghệ, với hơn 70% dân số dưới 35 tuổi, dễ thích nghi và nhanh chóng nắm bắt các công nghệ mới. Lợi thế nhân khẩu học này tạo nền tảng vững chắc cho việc ứng dụng thành công công nghệ số và trí tuệ nhân tạo (AI). Sự quan tâm của Chính phủ cũng góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số thông qua việc mở rộng nhu cầu về quản trị số, thương mại điện tử, AI và dữ liệu lớn, định vị Việt Nam là quốc gia có tư duy tiến bộ trong khu vực Đông Nam Á.

Tuy nhiên, từ kỳ vọng đến thực tiễn vẫn còn khoảng cách nhất định. Dù đã đạt được nhiều tiến bộ, Việt Nam vẫn đối mặt với không ít thách thức trong việc nâng cấp cơ sở hạ tầng số. Khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa vẫn thiếu kết nối Internet ổn định, hạn chế khả năng tiếp cận dịch vụ số và công nghệ AI.

Bên cạnh đó, việc mở rộng các dịch vụ số làm gia tăng lo ngại về an ninh mạng và quyền riêng tư dữ liệu. Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để bảo vệ người dân và doanh nghiệp trước nguy cơ vi phạm dữ liệu và các mối đe dọa mạng.

Cuối cùng, một bộ phận đáng kể người dân vẫn thiếu kiến thức số, đặc biệt ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Việc thu hẹp khoảng cách này là yếu tố quan trọng để đảm bảo phân phối lợi ích số một cách toàn diện và công bằng.

bai-dang-5.png
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hoàng Sơn - Phó Viện trưởng kiêm Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu tiên tiến quốc tế về trí tuệ nhân tạo ứng dụng, Viện Công nghệ Thông tin (ĐHQGHN). Ảnh: NVCC - Thiết kế: Hồng Mai

Để thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia toàn diện, Chính phủ đã thông qua một số chính sách và chiến lược quan trọng, định hướng rõ ràng cho chuyển đổi số và phát triển trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam hiện nay.

Nền tảng của những nỗ lực này là Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Quyết định mang tính bước ngoặt này xác định ba trụ cột chính của chuyển đổi số tại Việt Nam: chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Đồng thời đặt ra mục tiêu cho kinh tế số đóng góp 20% GDP vào năm 2025 và 30% vào năm 2030.

Sau đó, Quyết định số 127/QĐ-TTg ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đến năm 2030, đặt mục tiêu đưa Việt Nam vào top 4 quốc gia ASEAN và top 50 thế giới về nghiên cứu và ứng dụng AI.

Ngoài ra, Luật Công nghiệp Công nghệ số (Luật số 71/2025/QH15) đã tạo khuôn khổ pháp lý toàn diện cho nền kinh tế số. Luật này đưa ra các ưu đãi cho nghiên cứu AI, phát triển công nghệ bán dẫn và các trung tâm dữ liệu, đồng thời thiết lập các khuôn khổ pháp lý thử nghiệm các công nghệ số tiên tiến (sandbox).

Cùng với đó, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, xác định chuyển đổi số và AI là một trong những trụ cột chiến lược cho tăng trưởng kinh tế - xã hội. Những chính sách này phản ánh cách tiếp cận có hệ thống của nước ta trong việc xây dựng một nền kinh tế cạnh tranh dựa trên đổi mới sáng tạo, thể hiện quyết tâm đẩy nhanh quá trình số hóa trong các lĩnh vực chính phủ, doanh nghiệp và xã hội toàn diện.

5 vấn đề cần ưu tiên để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hoàng Sơn nhận định, Nghị quyết 57-NQ/TW tạo khung chính sách then chốt nhằm thúc đẩy đột phá về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đưa Việt Nam vươn mình mạnh mẽ trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nghị quyết này cùng Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân là những trụ cột thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước ta tiến lên trong kỷ nguyên mới.

Để thúc đẩy mạnh mẽ hơn các đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, vị phó giáo sư cho rằng cần ưu tiên 5 vấn đề trọng tâm.

Thứ nhất là phát triển cơ sở hạ tầng, bảo đảm cơ sở hạ tầng số mạnh mẽ, bao gồm Internet băng thông rộng và hạ tầng điện toán đám mây - nền tảng cho chuyển đổi số. Cần đẩy nhanh triển khai 5G, hướng tới 6G, nâng cấp trung tâm dữ liệu, mở rộng kết nối tại khu vực nông thôn. Đồng thời, xây dựng các nền tảng dữ liệu quốc gia dựa trên công nghệ DataOps và MLOps do Việt Nam làm chủ, tạo chủ quyền pháp lý về dữ liệu.

Thứ hai là phát triển nguồn nhân lực số. Việc xây dựng lực lượng lao động có kỹ năng khai thác công nghệ số, AI, khoa học dữ liệu và các công cụ dựa trên trí tuệ nhân tạo tạo sinh (GenAI) là yêu cầu cấp thiết. Chính phủ cần ưu tiên hình thành các trung tâm đào tạo xuất sắc (CoET) tại các đại học lớn, thúc đẩy giáo dục và đào tạo về kỹ năng số cơ bản và kỹ năng STEM nâng cao. Trong bối cảnh công nghệ AI tạo sinh bùng nổ, nguồn nhân lực số chuyên biệt cần được trang bị qua các chương trình đào tạo chuyên sâu tại CoET.

Thứ ba là đầu tư nghiên cứu và phát triển (R&D). Để thúc đẩy công nghệ và sản phẩm mũi nhọn, Chính phủ cần tạo “vốn mồi” thông qua đầu tư công - tư (PPP) vào R&D, nhằm thúc đẩy đổi mới toàn diện trong các lĩnh vực như AI, bán dẫn, blockchain và IoT. Việc đầu tư cần tránh manh mún, tập trung theo hướng “vun sâu, vun cao” vào 8 công nghệ trọng tâm, từ đó xác định 3 sản phẩm chiến lược có khả năng cạnh tranh quốc tế.

Cần đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu giữa đại học và doanh nghiệp công nghệ toàn cầu, thu hút chuyên gia giỏi đảm nhiệm vai trò Giám đốc công nghệ (CIO) dưới sự dẫn dắt của các “kiến trúc sư trưởng” trong từng ngành, nhằm thúc đẩy đổi mới hướng tới người dùng.

Thứ tư là hoàn thiện hành lang pháp lý. Việc xây dựng quy định rõ ràng, linh hoạt về AI, dữ liệu lớn và dịch vụ số để vừa thúc đẩy đổi mới sáng tạo, vừa bảo vệ người tiêu dùng. Mặc dù đã có Luật Trí tuệ nhân tạo và các luật liên quan, song, rất cần điều chỉnh và đồng bộ các luật về đầu tư công, luật ngân sách nhà nước, nhằm tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh để thúc đẩy mạnh mẽ và toàn diện sự phát triển công nghệ số tại Việt Nam.

Thứ năm là số hóa mạnh mẽ khu vực công. Đẩy nhanh quá trình số hóa dịch vụ công trên Cổng dịch vụ công quốc gia, hướng tới 100% dịch vụ công trực tuyến toàn trình, sẽ nâng cao hiệu quả và tính minh bạch. Việc phát triển chính phủ điện tử và chính phủ số góp phần củng cố niềm tin, tăng cường hợp tác giữa cơ quan công quyền và người dân, lấy sự hài lòng của người dân làm trung tâm phục vụ.

Cần xây dựng lực lượng lao động có tay nghề cao, phát triển nguồn nhân lực số

Để đẩy mạnh chuyển đổi số, bên cạnh việc nâng cấp hạ tầng cơ sở vật chất, đào tạo nhân lực chất lượng cao cũng rất quan trọng. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hoàng Sơn cho rằng cần tập trung xây dựng lực lượng lao động có tay nghề cao thông qua chương trình phát triển nguồn nhân lực số.

Theo đó, trước hết cần điều chỉnh chương trình giảng dạy. Các trường phổ thông và đại học cần cập nhật chương trình giảng dạy để tích hợp AI, khoa học dữ liệu, công nghệ phần mềm và quản trị số theo cơ chế phân tầng. Nghĩa là, học sinh từ bậc phổ thông có cơ hội lựa chọn học các phân môn công nghệ để sau khi tốt nghiệp các em vẫn có thể đi làm ngay. Lên đại học, sinh viên sẽ không học lại các môn cơ bản về công nghệ số như ở bậc phổ thông mà sẽ học chuyên sâu, từ các học phần lõi cho đến học phần công nghệ dưới sự kết hợp của tỷ lệ: 30% (học tại lớp) - 30% (học qua dự án ở trường) - 40% (học thực tế tại doanh nghiệp).

Tiếp đến, thúc đẩy toàn diện các chương trình đào tạo lại kỹ năng. Việt Nam nên ưu tiên tập trung đào tạo lại kỹ năng số cho lực lượng lao động hiện tại, đặc biệt là trong lĩnh vực truyền thống, thông qua chương trình đào tạo như lập trình AIoT, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, marketing số và nhiều công nghệ khác để thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền.

Cùng với đó, để thúc đẩy đào tạo nhân lực số cần có môi trường thực hành chuẩn để người học kịp tiếp cận công nghệ hiện đại. Nhu cầu cấp thiết là thành lập trung tâm/phòng thí nghiệm (LAB) nghiên cứu, phát triển về AI và Robotics quốc gia (khoảng 10 trung tâm lớn trên cả nước). Các trung tâm này có thể đặt tại đại học và cơ sở giáo dục lớn, là cầu nối giữa doanh nghiệp công nghệ và Chính phủ trong thu hút vốn tài trợ thông qua chương trình R&D quốc gia.

Mặt khác, cần tăng cường cấp học bổng để phát triển giáo dục STEM. Chính phủ cần hỗ trợ học bổng thông qua quỹ tài trợ và cơ chế ưu đãi cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh trong lĩnh vực STEM, đặc biệt là AI và khởi nghiệp công nghệ. Thực hiện cơ chế đồng sở hữu với giảng viên từ doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia giảng dạy, góp phần hình thành lực lượng công nghệ chất lượng cao cho thị trường R&D.

Ngoài ra, sự hợp tác giữa Chính phủ, trường đại học và khu vực tư nhân đóng vai trò then chốt trong việc thu hẹp khoảng cách kỹ năng và thúc đẩy phát triển công nghệ. Mỗi bên trong mối quan hệ này đều có lợi ích riêng và chung, do đó cần cải cách thể chế để tăng cường hợp tác công - tư trong lĩnh vực công nghệ cao. Những giá trị mà khu vực tư nhân mang lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thúc đẩy đổi mới sáng tạo hiện nay.

bai-dang-6.png
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hoàng Sơn (bên trái) tại buổi Seminar về công nghệ xử lý dữ liệu đa nguồn của chuyên gia từ Đại học RMIT, Australia. Ảnh: Viện Công nghệ Thông tin (ĐHQGHN)

Cũng theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hoàng Sơn, để việc thực hiện chuyển đổi số, phát triển khoa học công nghệ của nước ta hiệu quả hơn, Chính phủ cần thúc đẩy triển khai Luật Dữ liệu (Luật số 60/2024/QH15 của Quốc hội có hiệu lực từ 1/7/2025) nhằm khuyến khích chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp tư nhân nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Những chính sách về dữ liệu mở có thể cho phép các công ty khởi nghiệp phát huy nguồn lực hiện có, thúc đẩy các sản phẩm và dịch vụ mới mà không cần xây dựng lại dữ liệu nền từ đầu, qua đó tập trung mạnh mẽ vào ý tưởng khởi nghiệp.

Nước ta nên tăng cường hợp tác quốc tế để thu hút công nghệ và chuyên môn tiên tiến thông qua đầu tư FDI và thu hút nhân lực chất lượng cao từ những tập đoàn công nghệ toàn cầu về Việt Nam. Đồng thời, phối hợp với các chuyên gia trong nước để có thể giúp đất nước nhanh chóng bắt kịp và tiến tới dẫn đầu trong chuyển đổi số.

Các chính sách chuyển đổi số cần bảo đảm mọi người dân đều được hưởng lợi, không ai bị bỏ lại phía sau, hướng tới công bằng và bình đẳng trong tiếp cận cơ hội. Quá trình này chỉ thực sự hiệu quả khi người dân coi chuyển đổi số là trách nhiệm và sứ mệnh chung. Đặc biệt, cần quan tâm nhóm dễ bị tổn thương như người cao tuổi, người dân nông thôn thông qua đào tạo kỹ năng số và hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp để tăng khả năng tham gia nền kinh tế số.

Mặt khác, khi trí tuệ nhân tạo (AI) trở thành nền tảng của kinh tế số ở nước ta, việc phát triển AI có đạo đức và bền vững là yêu cầu cấp thiết. Cần xử lý các vấn đề như định kiến trong AI, bảo mật dữ liệu, tác động môi trường và quản trị rủi ro. Việc xây dựng một AI có trách nhiệm, biết “lắng nghe” và “thấu hiểu” sẽ là động lực quan trọng giúp hiện thực hóa khát vọng “Việt Nam hùng cường” vào năm 2045.

Hồng Mai