Lý do không ai hưởng ứng Trung Quốc "gác tranh chấp, cùng khai thác" Biển Đông

26/09/2016 10:32
Ts Trần Công Trục
(GDVN) - Nếu các bên đồng ý dù chỉ trên nguyên tắc, là Trung Quốc đã “biến hóa” một yêu sách đơn phương vô lý, hoang tưởng, thiếu cơ sở, trở thành một yêu sách được...

LTS: Đài truyền hình Phượng Hoàng - Hồng Kông gửi cho Tiến sĩ Trần Công Trục 16 câu hỏi về vấn đề Biển Đông nhằm "đáp ứng mối quan tâm, thắc mắc của dư luận Trung Quốc" xoay quanh những tranh chấp phức tạp này.

Nhận thấy những vấn đề đài Phượng Hoàng đặt ra không chỉ là sự quan tâm của dư luận Trung Quốc, mà còn của các nước quanh Biển Đông và quan tâm đến vùng biển này, Tiến sĩ Trần Công Trục gửi đến Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài viết trả lời 1 trong 16 câu hỏi của đài này:

"Về việc khai thác tài nguyên ở Biển Đông, Trung Quốc cũng đưa ra chủ trương “Gác tranh chấp, cùng khai thác”, nhưng tại sao rất ít nước hưởng ứng?"

Xin trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc bài viết này.

Vấn đề đài Phượng Hoàng đặt ra, cũng là điều Trung Quốc lâu nay vẫn tìm cách thúc đẩy nhưng không đi đến đâu.

Lý do khiến các nước không hưởng ứng đề xuất này của Trung Quốc chính là cách nhập nhèm đánh lận con đen của họ trong việc xác định phạm vi khu vực tranh chấp, để có thể áp dụng các giải pháp tạm thời theo quy định của luật pháp quốc tế.

Giải pháp tạm thời có thể áp dụng cho 2 loại tranh chấp khác nhau trong Biển Đông: đó là loại tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam;

Tranh chấp trong việc hoạch định ranh giới các vùng biển và thềm lục địa giữa các quốc gia kế cận hay đối diện nhau ở xung quanh Biển Đông.

Giải pháp tạm thời trong tranh chấp chủ quyền lãnh thổ: Giữ nguyên hiện trạng

Giải pháp tạm thời có thể áp dụng cho loại tranh chấp chủ quyền lãnh thổ là: “hãy tạm gác vấn đề giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, tạm thời giữ nguyên hiện trạng của các bên tranh chấp trên hai quần đảo này”.

Tiến sĩ Trần Công Trục, ảnh do tác giả cung cấp.
Tiến sĩ Trần Công Trục, ảnh do tác giả cung cấp.

Thực chất, đây chính là nguyên tắc Status Quo (giữ nguyên hiện trạng) đã trở thành thông lệ quốc tế.

Nguyên tắc này đã được vận dụng phổ biến như là một giải pháp tạm thời, nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho các bên liên quan có thể ngồi lại với nhau để đàm phán hòa bình, giải quyết các tranh chấp biên giới lãnh thổ quốc gia trên đất liền cũng như trên các hải đảo.

Xin lưu ý rằng, giải pháp này không bao hàm nội dung “gác tranh chấp, cùng khai thác”. Do đó nó không làm ảnh hưởng hay có tác động gì đến kết quả của quá trình đàm phán giải quyết tranh chấp biên giới, lãnh thổ quốc gia.

Không thể có chuyện “gác tranh chấp, cùng khai thác” tại khu vực quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam, nơi mà hiện nay đang do lực lượng vũ trang Trung Quốc chiếm đóng trái phép (toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và 8 vị trí trên quần đảo Trường Sa).

Việt Nam cũng đã từng thỏa thuận áp dụng giải pháp tạm thời trong quá trình đàm phán giải quyết các tranh chấp biên giới, lãnh thổ với Trung Quốc.

Năm 1991, sau khi quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc được khôi phục, trước khi mở ra các vòng đàm phán về biên giới, lãnh thổ trên đất liền, hai bên đã ký:

Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới, theo nguyên tắc quản lý biên giới theo tình hình thực tế, giữ nguyên mốc giới hiện có.

Và chính trong Tuyên bố về nguyên tắc ứng xử trên Biển Đông (DOC), các bên tham gia cũng đã thỏa thuận giữ nguyên hiện trạng, không mở rộng thêm sự chiếm đóng, không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tình hình…

Thực chất đó chính là nội dung của nguyên tắc “giữ nguyên hiện trạng” (Status Quo).

Giải pháp tạm thời trong khu vực chồng lấn tạo ra bởi các vùng biển thành lập theo UNCLOS 1982

Đối với loại tranh chấp trong việc hoạch định ranh giới các vùng biển và thềm lục địa chồng lấn, giải pháp tạm thời được quy định trong Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).

Nó khác với nguyên tắc “giữ nguyên hiện trạng”, lại hoàn toàn khác với “sáng kiến gác tranh chấp, cùng khai thác” mà Trung Quốc đưa ra.

Tại Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS 1982, qui định về việc hoạch định ranh giới vùng Đặc quyền về kinh tế và Thềm lục địa giữa các quốc gia ven biển nằm kề hoặc đối diện nhau đã ghi rõ:

“Trong khi chờ ký kết thỏa thuận nói ở Khoản 1, các quốc gia hữu quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm thời có tính thực tiễn và để không phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này.

Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến việc hoạch định cuối cùng.” (Khoản 3).

Trong thực tế, vận dụng quy định này của UNCLOS 1982, các quốc gia ven biển đã thỏa thuận áp dụng giải pháp “hợp tác khai thác chung” (Joint-development) ở vùng Đặc quyền về kinh tế và Thềm lục địa chồng lấn, không hề có nội dung “gác tranh chấp” theo cách nói mập mờ của Trung Quốc.

Lý do không ai hưởng ứng Trung Quốc "gác tranh chấp, cùng khai thác" Biển Đông ảnh 2

Những câu hỏi còn bỏ ngỏ tại hội thảo về Biển Đông ở Nha Trang

(GDVN) - Hoạt động ý nghĩa này vẫn đang thiếu sự phân tích, phản biện cần thiết trong khoa học, đặc biệt là với các vấn đề dư luận còn băn khoăn, tranh cãi.

Trong thực tiễn quốc tế có khá nhiều trường hợp các quốc gia ven biển đã vận dụng giải pháp tạm thời này, tất nhiên “hợp tác khai thác chung” chỉ áp dụng với vùng biển chồng lấn theo UNCLOS 1982.

Khi áp dụng giải pháp này, các bên đều phải tuân thủ các quy định của UNCLOS 1982 để xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của mình. Nếu tạo ra vùng chồng lấn thì các bên liên quan đàm phán để hoạch định ranh giới trong phạm vi vùng chồng lấn đó.

Trong khi đàm phán, nếu như chưa thống nhất được ranh giới cuối cùng, thì các bên có thể áp dụng giải pháp tạm thời là “hợp tác khai thác chung” các vùng biển chồng lấn.

Trong vịnh Thái Lan, năm 1992, Việt Nam và Malaysia đã ký thỏa thuận “hợp tác khai thác chung” trong phạm vi vùng biển chồng lấn rộng 2.800 km2.

Thậm chí, có vùng biển chồng lấn có liên quan giữa 3 nước như Việt Nam- Thái Lan- Malaysia rộng khoảng 875 km2 trong vịnh Thái Lan cũng đã được ba nước thỏa thuận “hợp tác khai thác chung” vào năm 1971.

Trong đàm phán hoạch định ranh giới vùng Đặc quyền về kinh tế chồng lấn giữa Việt Nam và Indonesia, các bên cũng đã bàn đến giải pháp tạm thời “hợp tác khai thác chung”….

Tuyệt đối không nhân nhượng với cạm bẫy "gác tranh chấp cùng khai thác" của Trung Quốc

Nếu yêu sách ranh giới biển và thềm lục địa nào không dựa vào các tiêu chuẩn của UNCLOS 1982 thì đương nhiên không được xem xét để áp dụng giải pháp tạm thời “hợp tác khai thác chung” có giá trị thực tiễn và tiến bộ này.

Đường “lưỡi bò” chiếm 80% diện tích Biển Đông do Trung Quốc tự vạch ra xuất phát từ tham vọng độc chiếm Biển Đông, không dựa vào bất cứ một quy định nào của UNCLOS 1982.

Cho dù nó đã được Trung Quốc chính thức công bố, cũng sẽ không bao giờ được coi là một yêu sách hơp lý, có căn cứ khoa học để xem xét áp dụng giải pháp tạm thời “hợp tác khai thác chung” trong vùng chồng lấn được tạo bởi con đường “hoang tưởng” này. 

Tất nhiên, không thể có chuyện “gác tranh chấp, cùng khai thác” trong vùng biển và thềm lục địa chồng lấn được tạo thành bởi yêu sách “lưỡi bò” này.

Tiến sĩ Trần Công Trục tham gia một buổi tọa đàm về tranh chấp Biển Đông, ảnh do tác giả cung cấp.
Tiến sĩ Trần Công Trục tham gia một buổi tọa đàm về tranh chấp Biển Đông, ảnh do tác giả cung cấp.

Càng không thể có chuyện “gác tranh chấp cùng khai thác” tại khu vực quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam, nơi mà hiện nay đang do lực lượng vũ trang Trung Quốc chiếm đóng trái phép (toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và 8 vị trí trên quần đảo Trường Sa).

Hãy cảnh giác và không bao giờ nhân nhượng trước chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” trong phạm vi biển, đảo, được tạo ra bởi “đường lưỡi bò” do Trung Quốc tự ý vạch ra trong Biển Đông, bất chấp luật pháp và thực tiễn quốc tế!

Trung Quốc hiện đang tìm cách thúc ép mạnh mẽ các nước trong khu vực thực hiện chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác”.

Trung Quốc cho rằng đề xuất này thể hiện thiện chí to lớn của họ, có cơ sở pháp lý (biện pháp tạm thời đối với vùng chồng lấn thềm lục địa), không đụng chạm đến quan điểm của mỗi bên về vấn đề chủ quyền, có tính xây dựng, thực tế và tính khả thi nhất, tạo điều kiện cho các bên khai thác tài nguyên phát triển kinh tế, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác cũng như góp phần giữ gìn môi trường hòa bình và ổn định trên biển. 

Nhưng với những gì tôi phân tích trên đây, đó chỉ là lối ngụy biện, bóp méo luật pháp quốc tế gồm nguyên tắc Status Quo và "giải pháp tạm thời" quy định tại Điều 74, Điều 83 UNCLOS 1982.

Triển khai kế “gác tranh chấp, cùng khai thác”, Trung Quốc vừa nhằm mục tiêu duy trì và củng cố yêu sách chủ quyền, tranh đoạt được tài nguyên phục vụ phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh năng lượng, vừa giữ được "bộ mặt hòa bình”, tranh thủ dư luận, tăng cường ảnh hưởng chinh trị đối với khu vực, hạn chế vai trò của các cường quốc khác.

Thực chất, ngoài khu vực Trường Sa, các khu vực Trung Quốc muốn “cùng khai thác” với các nước liên quan đều là các khu vực nằm trong phạm vi vùng Đặc quyền về kinh tế, Thềm lục địa hợp pháp của các nước có tiềm năng dầu khí và không có tranh chấp.

Do vậy, đề xuất “gác tranh chấp cung khai thác” này của Trung Quốc không thể chấp nhận được.

Nếu các bên đồng ý dù chỉ trên nguyên tắc, là Trung Quốc đã “biến hóa” một yêu sách đơn phương vô lý, hoang tưởng, thiếu cơ sở, trở thành một yêu sách được các bên mặc nhiên thừa nhận.

Vì vậy, phải luôn cảnh giác và không bao giờ chấp nhận âm mưu “gác tranh chấp, cùng khai thác” của Trung Quốc.

Nếu không cảnh giác và tỉnh táo trong khi phát biểu, đàm phán, thỏa thuận với Trung Quốc thì dễ mắc cạm bẫy của Bắc Kinh. Từ đó, họ sẽ khai thác những sơ hở có thể xảy ra trong bất kỳ một diễn đàn nào để kiên trì đòi chấp thuận yêu sách vô lý của mình.  

Ts Trần Công Trục