Tranh luận về việc chỉ trường chuyên ngành mới được đào tạo bác sĩ đang thu hút sự chú ý của nhiều chuyên gia và các cơ sở giáo dục đại học trong bối cảnh hiện nay cả nước có hơn 30 trường đại học đào tạo ngành y với những năng lực đào tạo khác nhau.
Cần thực hiện chặt chẽ trong đào tạo ngành Y để đảm bảo chất lượng đầu ra
Chia sẻ về vấn đề này, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Diệp Tuấn - Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, chủ trương quy hoạch và siết lại hoạt động đào tạo ngành y là cần thiết. Bởi lẽ, Y khoa là một lĩnh vực đặc thù, trong đó công tác đào tạo đòi hỏi phải đáp ứng những điều kiện và yếu tố cốt lõi mà không phải cơ sở giáo dục nào cũng có thể đảm bảo, như hệ thống bệnh viện thực hành đạt chuẩn, đội ngũ giảng viên cơ hữu có trình độ chuyên môn cao và đủ về số lượng.
Cơ sở vật chất có thể đầu tư bằng nguồn lực tài chính, song, chất lượng của đội ngũ giảng dạy cũng là một trong những yếu tố then chốt quyết định chất lượng đầu ra và cần có bề dày thời gian để bồi dưỡng, tích lũy, phát triển. Giảng viên y khoa giỏi phải được đào tạo bài bản về sư phạm y học, có nền tảng kiến thức vững chắc về các bộ môn như giải phẫu, mô phỏng, mô bệnh học, phôi học, năng lực giảng dạy và dẫn dắt sinh viên cả trong giai đoạn tiền lâm sàng và lâm sàng.
Trong khi đó, hiện nay một số cơ sở đào tạo chưa đáp ứng được đầy đủ các tiêu chuẩn về hệ thống thực hành - thực tập, hoặc còn hạn chế về đội ngũ giảng viên cơ hữu. Điều này có thể tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng chất lượng đầu ra nguồn nhân lực y tế. Bác sĩ tại các bệnh viện là lực lượng đóng vai trò quan trọng trong quá trình hỗ trợ đào tạo thực hành cho sinh viên y khoa. Tuy nhiên, trường đại học không thể phụ thuộc phần lớn vào bác sĩ của bệnh viện mà thay thế đội ngũ giảng viên ngành Y, vì chương trình đào tạo còn đòi hỏi người học phải có nền tảng vững chắc về cơ sở lý luận khoa học, song song với năng lực thực hành toàn diện.
Bên cạnh vấn đề siết lại chặt chẽ việc mở ngành đào tạo bác sĩ, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Diệp Tuấn cho hay, các trường đại học hiện nay nếu tiếp tục được cho phép triển khai đào tạo ngành Y khoa thì cần được kiểm định chặt chẽ để tiếp tục tuyển sinh nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra. Việc kiểm định chất lượng không phải mang tính hình thức, mà là công cụ quan trọng để đánh giá năng lực thực sự của cơ sở đào tạo, từ đội ngũ giảng viên, chương trình học tập cho đến điều kiện thực hành.
Hiện nay, bộ tiêu chuẩn kiểm định đang được áp dụng chung cho tất cả các ngành, trong khi Y khoa là một lĩnh vực đặc thù, đòi hỏi những tiêu chuẩn riêng cần được xây dựng và đánh giá với sự tham gia trực tiếp của các chuyên gia trong ngành. Điều này sẽ giúp đánh giá chính xác hơn về chất lượng đào tạo bác sĩ, đồng thời giảm thiểu những bất cập khi áp dụng các tiêu chuẩn chung không phù hợp với đặc thù nghề nghiệp. Từ đó đảm bảo sinh viên được đào tạo bài bản, có nền tảng vững chắc và kỹ năng thực hành thành thạo, nâng cao chất lượng đầu ra và đáp ứng tốt nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của xã hội.
Mặt khác, Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh đánh giá cao quy định về kiểm định chất lượng đào tạo hiện nay xây dựng bộ tiêu chuẩn dựa trên chuẩn mực quốc tế, đồng thời được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt. Cách làm này đảm bảo yêu cầu hội nhập quốc tế, cũng như phù hợp với công tác quản lý nhà nước. Bởi lẽ, nếu chỉ áp dụng bộ tiêu chuẩn trong nước mà thiếu tham chiếu quốc tế, hoặc chỉ dựa vào tiêu chuẩn quốc tế nhưng chưa được Bộ công nhận, thì sẽ phát sinh khó khăn.
Vì vậy, chất lượng đào tạo ngành Y cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp phép mở ngành, cùng với Bộ Y tế nắm bắt nhu cầu nhân lực toàn hệ thống, đồng thời dựa trên chuẩn mực quốc tế để đáp ứng yêu cầu hội nhập và khẳng định uy tín của giáo dục đại học Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh chủ trương hướng đến việc Việt Nam trở thành điểm thu hút thế giới đối với chữa trị một số loại bệnh, phát triển du lịch chăm sóc sức khỏe, chăm sóc người già.
Đào tạo nhân lực y tế phải gắn với chất lượng và cân đối nguồn cung – cầu
Nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành y - lĩnh vực đặc thù đòi hỏi năng lực chuyên môn rất cao, đội ngũ giảng viên có nền tảng sư phạm bài bản, cơ sở thực hành đạt chuẩn và hệ thống kiểm định nghiêm ngặt, Thầy thuốc ưu tú, Tiến sĩ, Bác sĩ Chuyên khoa II Phạm Hưng Củng - nguyên Vụ trưởng Vụ Y học cổ truyền, Bộ Y tế cho rằng, việc thực hiện chủ trương này giúp Việt Nam từng bước tiệm cận với các tiêu chuẩn đào tạo y khoa quốc tế, tạo điều kiện cho việc công nhận bằng cấp và trao đổi chuyên môn trong tương lai.
Trong từng giai đoạn phát triển, việc mở rộng quy mô đào tạo khi nhu cầu nhân lực tăng cao là điều dễ hiểu, nhưng phải kèm theo những yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng và nằm trong quy hoạch tổng thể, sao cho bám sát với yêu cầu thực tiễn của hệ thống y tế cũng như góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, nền y học hiện đại phát triển mạnh mẽ còn dựa trên các thành tựu của sinh học phân tử, công nghệ kỹ thuật, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn,...
Có thể thấy, chuẩn hóa chất lượng và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực y khoa là vấn đề cần thiết. Nhiều quốc gia phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Pháp, Đức,... đều thực hiện nguyên tắc chỉ các trường Y chuyên biệt mới đào tạo bác sĩ. Trong đó cũng có một số nước cho phép đại học tổng hợp mở ngành Y nhưng dưới dạng khoa chuyên biệt với bệnh viện thực hành. Cơ sở bệnh viện thực hành là điều kiện bắt buộc để sinh viên thuộc lĩnh vực này có trải nghiệm thực tế.
Đáng chú ý, hệ thống ở các quốc gia tiên tiến này có điểm chung là đều áp dụng cơ chế kiểm định nghiêm ngặt, chuẩn đầu ra và kỳ thi cấp chứng chỉ hành nghề rất chặt chẽ, đồng thời duy trì mối liên kết chặt chẽ giữa nhà trường - bệnh viện - hệ thống y tế, quy mô tuyển sinh được quy hoạch phù hợp với nhu cầu nhân lực y tế.
Nghề y là lĩnh vực đòi hỏi độ chính xác và tính trách nhiệm, vì vậy, việc chuẩn hóa và siết chặt chương trình đào tạo từ đầu hoặc chỉ thông qua những trường có bề dày kinh nghiệm và đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng giúp góp phần cung cấp đội ngũ bác sĩ có năng lực chuyên môn vững vàng, đáp ứng tốt yêu cầu xã hội. Bậc đại học có thể mở rộng, nhưng bậc đào tạo chuyên sâu (Nội trú, Chuyên khoa I, II) nên để các trường có truyền thống đào tạo.
Do đó, bài toán phân vai, phân tầng và điều phối hệ thống đào tạo là vấn đề cốt lõi, nhằm đảm bảo vừa đủ số lượng, vừa đáp ứng chất lượng nguồn nhân lực y tế trong dài hạn. Ngoài ra, điều kiện đào tạo y khoa phải có sự ràng buộc về bệnh viện thực hành bao gồm quy mô giường bệnh, quy định chi tiết về tỷ lệ giảng viên trên sinh viên, giờ lâm sàng tối thiểu cho từng chuyên ngành,... Chúng ta nên có bài toán tổng thể ở tầm quốc gia về quy hoạch đào tạo nhân lực y tế để tránh tình trạng mất cân đối trong hệ thống.
Đồng tình với ý kiến trên, một giảng viên Trường Đại học Y Dược Thái Bình chia sẻ, chủ trương siết chặt quản lý các cơ sở đào tạo y là tín hiệu đáng mừng, đồng thời là bước đi quan trọng hướng tới việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế trong dài hạn. Trong khi các trường đại học chuyên đào tạo lĩnh vực y luôn duy trì chuẩn đầu vào cao, chương trình giảng dạy bài bản, đánh giá học tập khắt khe, thì còn tồn tại một số cơ sở không chuyên hạ chuẩn đầu vào để tuyển sinh ồ ạt. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới uy tín ngành Y khi nguy cơ tạo ra đội ngũ bác sĩ không đủ chuyên môn, mà còn tiềm ẩn rủi ro trực tiếp đối với sức khoẻ con người.
Đáng chú ý, đề xuất siết chặt điều kiện đào tạo khối ngành sức khỏe, thực hiện kiểm định nghiêm ngặt và nâng cao chuẩn đầu ra là giải pháp rất cần thiết. Việc đào tạo bác sĩ không thể chạy theo số lượng hay lợi nhuận thuần tuý mà chất lượng đào tạo và đạo đức nghề nghiệp phải được đặt lên hàng đầu, thể hiện trách nhiệm đối với xã hội.
Một hệ thống y tế vững mạnh chỉ có thể được xây dựng và phát triển khi đội ngũ bác sĩ được trang bị nền tảng kiến thức bài bản, tích lũy kỹ năng thực hành thành thạo và được chọn lọc nghiêm túc ngay từ khi bắt đầu bước vào nghề nghiệp. Đây chính là nền tảng quan trọng nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cộng đồng và hướng tới nền y tế phát triển bền vững hơn nữa trong tương lai.