Khối ngành sức khỏe là lĩnh vực đào tạo nhân lực liên quan mật thiết đến sức khỏe của người dân, chính vì vậy, theo nhiều lãnh đạo cơ sở giáo dục đại học đào tạo khối ngành y dược, việc có bệnh viện thực hành trực thuộc các trường đào tạo y dược được nhiều lãnh đạo cơ sở đào tạo nhận định là yêu cầu bắt buộc về pháp lý, đồng thời là chiến lược cấp thiết nhằm bảo đảm chất lượng đào tạo đội ngũ nhân lực y tế.
Tuy nhiên, trên thực tế, vấn đề này vẫn đang tồn tại nhiều vướng mắc và hạn chế. Mô hình bệnh viện - trường chưa được triển khai đồng bộ, còn lỏng lẻo.
Trường đào tạo y dược bắt buộc phải có bệnh viện thực hành của riêng mình
Trường Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những cơ sở đào tạo có bệnh viện trực thuộc, có tên là Bệnh viện Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Diệp Tuấn – Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Các trường đào tạo y dược bắt buộc phải có bệnh viện thực hành của riêng mình. Nếu không, thì cũng phải có bệnh viện thực hành gắn chặt với mình theo đúng nghĩa, chứ không chỉ dừng lại ở hợp đồng liên kết lỏng lẻo – nơi mà hợp đồng chỉ tồn tại trên danh nghĩa, thiếu sự gắn kết thực chất”.
Theo Giáo sư Trần Diệp Tuấn, sự gắn kết thực chất là khi giảng viên cơ hữu của trường cũng “bám” tại bệnh viện thực hành của trường, tức là vừa tham gia công tác khám chữa bệnh, vừa trực tiếp tham gia giảng dạy sinh viên. Họ là lực lượng đồng thời giữ hai vai trò – bác sĩ bệnh viện và giảng viên nhà trường, đảm bảo tính liên tục và chất lượng trong đào tạo.
Trên thực tế, hiện có nhiều trường đào tạo y ký hợp đồng liên kết với bệnh viện, sau đó nhờ đội ngũ bác sĩ bệnh viện tham gia giảng dạy nhưng chủ yếu dưới hình thức giảng viên thỉnh giảng. Tuy nhiên, thực tế là việc tham gia đào tạo của họ chỉ dừng ở việc hỗ trợ (nếu có thời gian). Cách làm này không thể thay thế được một giảng viên thực thụ, có hiểu biết đầy đủ về chuyên môn sư phạm và lĩnh vực y học – những yếu tố cần thiết để trở thành giảng viên đúng nghĩa trong trường y.
Bởi, một bác sỹ thuần túy chưa chắc đã là một giảng viên. Bác sĩ bệnh viện có thể tham gia hỗ trợ giảng dạy thực hành, nhưng giảng viên trường y vừa phải có chuyên môn về lĩnh vực sư phạm và cả chuyên môn về lĩnh vực y học.

Để đảm bảo chất lượng đào tạo, mỗi trường đào tạo y cần chủ động tuyển dụng đội ngũ giảng viên của mình, các thầy cô vừa là bác sĩ… vừa là giảng viên của riêng trường mình, để họ vừa khám chữa bệnh, vừa giảng dạy, sát với thực tiễn lâm sàng.
Thầy Tuấn thông tin, trên thực tế, mô hình Trường – Viện (tức trường y có bệnh viện thực hành trực thuộc) đã được áp dụng từ lâu trên thế giới nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo và tính thực tiễn trong chương trình học. Các trường y chính là nơi đào tạo lực lượng bác sĩ – những người trực tiếp mang trọng trách cứu người, do đó chỉ những trường đủ năng lực mới tồn tại bền vững.
Tuy nhiên, để xây dựng bệnh viện thực hành thực sự, đòi hỏi đầu tư lớn, từ hạ tầng đến tuyển dụng, đào tạo giảng viên…
Thầy Tuấn cũng cho rằng, với những trường đào tạo y thực hiện nhiệm vụ đào tạo nhân lực y tế cho địa phương, nếu chưa có bệnh viện riêng thì cần thiết phải gắn chặt với hệ thống y tế địa phương, lấy hệ thống y tế địa phương làm cơ sở đào tạo thực hành, từ đó đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng, phục vụ hiệu quả nhu cầu của người dân địa phương sau khi tốt nghiệp.
Đồng tình với quan điểm trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Tiến – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Y Dược Thái Bình cho rằng việc có bệnh viện trực thuộc các trường đại học là hết sức cần thiết.
Theo thầy Tiến, cán bộ y tế, bác sĩ cần được làm việc trực tiếp tại bệnh viện để triển khai những kỹ thuật mới, đồng thời kết hợp thực hiện nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học và chăm sóc sức khỏe cho người dân. Hiện nay, mô hình bệnh viện thuộc trường đại học đang tham gia rất tích cực trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Đặc biệt, các bệnh viện trực thuộc trường đào tạo y dược còn đảm nhiệm vai trò đào tạo theo hình thức “cầm tay chỉ việc” cho sinh viên của trường – một yếu tố vô cùng quan trọng đối với người học khối ngành sức khỏe. Khi thực hành tại bệnh viện do trường quản lý, sinh viên được các giảng viên trực tiếp hướng dẫn, triển khai kỹ thuật, tạo điều kiện thuận lợi để nắm vững chuyên môn.
Để khuyến khích các trường xây dựng và phát triển mô hình này, thầy Tiến cho rằng, cần ban hành những quy định, quy chế cụ thể, tạo điều kiện cho đội ngũ giảng viên vừa giảng dạy, vừa nghiên cứu khoa học, vừa tham gia hoạt động chuyên môn tại các bệnh viện trực thuộc.
Có bệnh viện trực thuộc trường đào tạo y dược là đúng với xu thế quốc tế
Cùng trao đổi về vấn đề trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải - Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược Hải Phòng, Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hải Phòng cho hay, dù Nghị định số 111/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định về tổ chức đào tạo thực hành trong đào tạo khối ngành sức khỏe đã phần nào gỡ nút thắt trong công tác đào tạo thực hành cho sinh viên của các trường đào tạo y dược, song thực tế triển khai lại có một số hạn chế như tính thiếu chủ động trong đào tạo. Điều này khiến nhiều trường chưa phát huy hết tiềm năng đội ngũ giảng viên – những người hoàn toàn có thể đảm nhận cả nhiệm vụ khám chữa bệnh, giảng dạy và nghiên cứu khoa học một cách toàn diện.
Theo thầy Khải, trong thực tiễn quốc tế, việc các trường đào tạo khối ngành sức khỏe sở hữu bệnh viện trực thuộc là điều tất yếu, đặc biệt tại những quốc gia có nền y học phát triển. Bệnh viện trực thuộc trường không chỉ là trung tâm đào tạo thực hành cho sinh viên mà còn là cốt lõi để đào tạo, phát triển đội ngũ giảng viên, đóng vai trò then chốt trong nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế.
Chính vì vậy, việc có bệnh viện trực thuộc đối với các trường đào tạo y dược chính là yêu cầu bắt buộc. Những bệnh viện này đảm đương vai trò song song: vừa khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho người dân, vừa thực hiện chức năng đào tạo và nghiên cứu khoa học.

Đáng nói, tại Việt Nam, mô hình này chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều cơ sở đào tạo khối ngành sức khỏe vẫn chủ yếu ký hợp đồng với bệnh viện ngoài làm cơ sở thực hành cho người học và cơ sở hoạt động chuyên môn cho giảng viên. Điều này khiến hoạt động đào tạo thiếu tính chủ động và ổn định lâu dài.
Trong khi đó, theo đúng xu thế phát triển, yêu cầu xây dựng hệ thống bệnh viện thực hành đủ mạnh và đủ quy mô trong các trường đào tạo khối ngành sức khỏe là rất cần thiết. Đây là yếu tố sống còn để cải thiện chất lượng đào tạo, gắn lý thuyết với thực tiễn, đồng thời đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập trong lĩnh vực y tế.
Hiện tại, một số bệnh viện trực thuộc trường đào tạo khối ngành sức khỏe lớn như Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh đang được đề xuất trở thành bệnh viện hạng đặc biệt, nhờ những đóng góp to lớn cho hệ thống y tế và giáo dục. Một số trường đại học y dược tại các địa phương cũng đã có bệnh viện trực thuộc, dù quy mô vẫn còn khiêm tốn, và nhiều cơ sở đào tạo khác cũng đang manh nha thành lập nhưng còn manh mún. Nhiều cơ sở giáo dục đại học tư thục đào tạo khối ngành sức khỏe gần như là rất ít trường có bệnh viện thực hành trực thuộc. Đây là bất cập trong công cuộc nâng cao chất lượng đào tạo khối ngành sức khỏe.
Thầy Khải thông tin, theo kế hoạch dự kiến của ngành y tế đến năm 2030, một số bệnh viện trực thuộc trường sẽ được nâng cấp thành các bệnh viện chuyên sâu đầu ngành. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi lộ trình cụ thể, kèm theo nguồn lực tài chính và chính sách phù hợp.
Tất nhiên, việc xây dựng và phát triển bệnh viện trực thuộc trường đào tạo y dược không hề dễ, nhưng kinh nghiệm quốc tế cho thấy đây là điều kiện bắt buộc nếu muốn ngành y phát triển bền vững. Bên cạnh đó, bệnh viện trực thuộc trường còn góp phần mang lại nguồn thu đáng kể để tái đầu tư vào đào tạo ngoài nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Quy mô phát triển bệnh viện trực thuộc trường sẽ tùy thuộc vào năng lực từng trường. Tuy nhiên, việc triển khai đào tạo sẽ thuận lợi hơn, sinh viên có điều kiện tiếp cận phương tiện, bệnh nhân và bác sĩ ngay trong trường. Bệnh viện cũng góp phần tăng thu nhập cho giảng viên – điều rất cần thiết để giữ chân đội ngũ giỏi trong bối cảnh cạnh tranh với bệnh viện lớn, bệnh viện tư thục khác.
Cũng theo thầy Khải, do đặc thù ngành y là ngành liên quan đến an sinh xã hội, cần có quy hoạch ưu tiên cũng như đầu tư vốn và trang thiết bị từ phía Chính phủ. Còn về đội ngũ giảng viên ở các trường hầu như đã có năng lực tốt, thậm chí là vượt yêu cầu.
Về mặt chuyên môn, công tác khám chữa bệnh tại bệnh viện trực thuộc trường không khác các cơ sở y tế khác, nhưng đặc biệt ở chỗ các giảng viên trực tiếp tham gia điều trị, giảng dạy, chuyển giao kỹ thuật. Những bệnh viện lớn thuộc trường y dược cũng là nơi nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, có vai trò đầu tàu cho sự phát triển ngành y dược với sự góp mặt của nhiều giáo sư đầu ngành.
Nhìn từ thực tế của nhà trường, thầy Khải cho biết thêm, khi có bệnh viện thực hành trực thuộc, công tác triển khai chương trình đào tạo cũng trở nên thuận lợi hơn; sinh viên được trực tiếp tiếp cận với các phương tiện kỹ thuật, người bệnh cùng các bác sĩ; đặc biệt là đóng góp tái đầu tư cho đào tạo của trường.