Trong phiên thảo luận của tọa đàm “Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế hóa của các đại học, cao đẳng ở Việt Nam” diễn ra tại Đại học Bách khoa Hà Nội, các chuyên gia, đại diện cơ sở giáo dục đại học đã tích cực trao đổi và chia sẻ ý tưởng, sáng kiến về mô hình hợp tác quốc tế hiệu quả.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đắc Trung - Trưởng Ban Hợp tác – Đối ngoại, Đại học Bách khoa Hà Nội, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Hợp tác Quốc tế (thuộc Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam) điều hành phiên thảo luận.
Muốn hội nhập sâu, CSGD phải nâng chuẩn kỹ năng, tư duy hợp tác
Trong phiên thảo luận, bà Nguyễn Thị Thanh Mai - Phó Giám đốc Tổ chức Đại học Pháp ngữ (AUF) khẳng định, trong bối cảnh toàn cầu đang diễn ra mạnh mẽ, quốc tế hóa là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.
Bà Mai đánh giá cao sự cam kết bền vững của Đại học Bách khoa Hà Nội đối với cộng đồng nghiên cứu khoa học và giảng dạy đại học của Tổ chức Đại học Pháp ngữ. Điều này được chứng minh qua việc Đại học Bách khoa Hà Nội là nơi đặt trụ sở văn phòng khu vực của Tổ chức, cũng như Trung tâm Công nghệ giáo dục Pháp ngữ (CNF).
Hơn 30 năm hoạt động tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Tổ chức đã xây dựng một mạng lưới năng động, với hơn 90 cơ sở thành viên tại 16 quốc gia, minh chứng cho sự đa dạng về sức sống mãnh liệt của giáo dục Pháp ngữ, hàng ngày thúc đẩy các dự án hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật vượt qua ranh giới địa lý.
Việt Nam là quốc gia có nhiều bước tiến mạnh mẽ trong đổi mới giáo dục, do đó Tổ chức AUF không ngừng nỗ lực để hỗ trợ các đối tác để tiếp cận với các chương trình đào tạo tiên tiến, dự án nghiên cứu song phương, đa phương trong khối Pháp ngữ.
Trong bối cảnh đổi mới, Ban Giám đốc Tổ chức AUF khu vực Châu Á - Thái Bình Dương luôn sẵn sàng đồng hành và là cầu nối để các cơ sở giáo dục có thể kết nối mạng lưới hơn 1.100 thành viên của Tổ chức trên toàn thế giới. Từ đó thúc đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.
“Tôi tin rằng, với cam kết chung về sự hợp tác không ngừng, cộng đồng đại học Pháp ngữ tại Việt Nam sẽ tiếp tục là hình mẫu về sự khởi đầu, cởi mở, kết nối và ảnh hưởng sâu rộng trong khu vực”, bà Mai chia sẻ.
Nêu vấn đề cần thảo luận, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ái Việt - Viện trưởng Viện Công nghệ và Giáo dục Trí tuệ mới tạo sinh, cho biết vừa qua đã đề xuất khái niệm “ngoại giao công nghệ”, có nghĩa rằng muốn phát triển khoa học – công nghệ thì chắc chắn phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
Sự quan tâm của các tập đoàn và đại học trên thế giới đối với Việt Nam đang tăng lên, và đó là tín hiệu đáng mừng. Nhưng để biến sự quan tâm ấy thành kết quả thực chất lại là thách thức lớn. Nhiều hợp tác quốc tế trong giáo dục có quy mô đến với Việt Nam, nhưng chúng ta lại thiếu đối tác đủ năng lực để “ngang tầm” triển khai. Do vậy, cần đẩy mạnh hợp tác theo chiều sâu”, thầy Việt nhấn mạnh.
Thầy Việt chỉ ra thách thức lớn nhất của hợp tác quốc tế giáo dục hiện nay là nhiều trường ký được thỏa thuận nhưng các khoa lại không có đủ nhân lực để triển khai. Bên cạnh đó, kỹ năng hợp tác quốc tế và văn hóa hợp tác quốc tế vẫn là vấn đề khó. Vì vậy, thầy cô và sinh viên cần được đào tạo về kỹ năng hợp tác, đặc biệt là kỹ năng viết dự án, bởi không ít thầy cô không đủ năng lực để viết dự án, và đã đến lúc phải ưu tiên đào tạo năng lực này.
“Các đối tác quốc tế thường nhìn vào lực lượng lao động trình độ trung bình của Việt Nam để đưa ra các ký kết. Do vậy, các cơ sở giáo dục cần nhận diện rõ điểm yếu của học sinh, sinh viên: từ tiếng Anh, kỹ năng mềm đến thái độ thiện chí để có phương án bồi dưỡng phù hợp”, thầy Việt lưu ý.
Bên cạnh đó, vị này cũng đề cập đến việc thu hút giáo sư quốc tế về Việt Nam. Ở nước ngoài, cứ 3–4 năm, giáo sư lại rời trường khoảng một năm, và câu hỏi đặt ra là trong khoảng thời gian đó, các trường đại học Việt Nam sẽ làm thế nào để mời họ về làm việc? Cách đây 10 năm, thầy Việt cũng đã đề xuất việc mời giáo sư nước ngoài về Việt Nam, nhưng khi đó còn nhiều lo lắng, nhất là sợ thất thoát kinh phí. “Còn ngày nay, điều khiến chúng ta lo không phải là kinh phí, mà là không có ý tưởng để thực hiện,” thầy Việt chia sẻ.
Cùng chia sẻ, Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Hải Sâm – Trưởng phòng Hợp tác Quốc tế, Trường Đại học Lâm Nghiệp cho biết dù trường nằm ở khu vực ngoại thành Hà Nội nhưng lại có lợi thế lớn khi đã thiết lập quan hệ hợp tác với nhiều đối tác nước ngoài và tham gia các chương trình đào tạo quốc tế.
Theo thầy Sâm, các cơ sở giáo dục có thể chủ động kết nối, chia sẻ thông tin và giới thiệu đối tác cho nhau để mở rộng mạng lưới hợp tác quốc tế. Ví dụ, với các dự án châu Âu, yêu cầu thường là phải có từ 2–3 đối tác châu Á và ít nhất 2 đối tác châu Âu, thậm chí nhiều hơn. Và khi số lượng đơn vị tham gia trong một dự án tăng lên, mức độ cạnh tranh cũng tăng theo.
Ngoài việc mở rộng hợp tác với đối tác nước ngoài, các cơ sở giáo dục trong nước cũng nên chủ động hợp tác với nhau để cùng phát triển. Trong đào tạo quốc tế, các cơ sở giáo dục tại Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện trao đổi giáo sư ngắn hạn.
Thầy Sâm cũng nêu rõ những khó khăn khi triển khai Quyết định số 06/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam. Theo đó, các cơ sở giáo dục hiện gặp vướng mắc trong việc lập báo cáo, xin cấp phép mỗi khi có đoàn quốc tế đến làm việc. Thực tế, Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo không muốn tiếp nhận các báo cáo của những hội thảo quy mô nhỏ do các trường tổ chức. Tuy nhiên, theo quy định, các trường vẫn phải làm báo cáo và xin phép mới được triển khai, trong khi các hội thảo quốc tế diễn ra thường xuyên, dẫn tới tình trạng nếu báo cáo đủ thì quá tải, không báo cáo thì vi phạm quy định.
Liên quan đến thủ tục cấp giấy phép cho người lao động nước ngoài vào Việt Nam, thầy Sâm cho rằng hiện vẫn còn nhiều rào cản. Do đó, kỳ vọng thời gian tới khi triển khai Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ, cơ quan quản lý sẽ phân quyền mạnh hơn cho các cơ sở giáo dục. Khi đó, hoạt động hợp tác quốc tế của các trường sẽ thuận lợi và linh hoạt hơn.
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Phạm Đăng Phúc - đại diện Tập đoàn EBSCO (Mỹ) cho rằng, muốn hợp tác hiệu quả thì trước hết phải tìm được đúng đối tác. EBSCO sẵn sàng hỗ trợ các cơ sở giáo dục Việt Nam trong việc kết nối, tìm kiếm doanh nghiệp phù hợp.
“Để mở rộng mạng lưới hợp tác quốc tế, các trường đại học cần chú trọng thứ hạng quốc tế và xác định rõ mục tiêu hợp tác. Đây là những tiêu chí quan trọng để EBSCO đề xuất đối tác phù hợp cho từng đơn vị.
Chúng tôi kỳ vọng EBSCO sẽ trở thành đối tác cung cấp cơ sở dữ liệu học thuật cho các cơ sở giáo dục, đồng thời mang lại giá trị thiết thực trong quá trình các đơn vị tham gia thị trường và môi trường học thuật tại Việt Nam”, ông Phạm Đăng Phúc chia sẻ.
Đề xuất tổ chức bồi dưỡng hằng năm cho đội ngũ làm hợp tác quốc tế
Các ý kiến chia sẻ và thảo luận tại tọa đàm đã mang lại nhiều góc nhìn sâu sắc về vai trò, cơ hội và thách thức trong tiến trình quốc tế hóa của các cơ sở giáo dục của Việt Nam. Từ đó, giúp nhận thức rõ ràng hơn về việc quốc tế hóa không chỉ là xu hướng mà là yêu cầu tất yếu để nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu. Việc quốc tế hóa thành công sẽ giúp Việt Nam xây dựng nền giáo dục tri thức, sáng tạo, và hội nhập sâu rộng, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội và khẳng định vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
Phát biểu tổng kết tọa đàm, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Hợp tác Quốc tế Nguyễn Đắc Trung khẳng định, tọa đàm đã nêu được một số vấn đề thách thức cần phải làm:
Thứ nhất, xây dựng chiến lược quốc tế hóa toàn diện, gắn liền với đổi mới giáo dục, nghiên cứu và chuyển đổi số.
Thứ hai, phát triển đội ngũ nhân sự có tư duy toàn cầu – bao gồm giảng viên, nhà nghiên cứu và cán bộ quản lý.
Thứ ba, đầu tư hạ tầng khoa học – công nghệ và chuyển đổi số, phục vụ giảng dạy trực tuyến, hợp tác nghiên cứu và trao đổi học thuật.
Thứ tư, thúc đẩy hợp tác đa phương trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và đào tạo nhân lực chất lượng cao.
Thứ năm, xây dựng thương hiệu học thuật Việt Nam, hướng tới mục tiêu trở thành “điểm đến tri thức mới”.
“Chỉ khi các trường đại học, các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế cùng chung tay, quốc tế hóa giáo dục Việt Nam mới thực sự trở thành động lực phát triển quốc gia tri thức, sáng tạo và hội nhập sâu rộng”, thầy Trung nhấn mạnh.
Cuối tọa đàm, các hội viên của Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam bày tỏ mong muốn, đề xuất Cục Hợp tác Quốc tế (Bộ Giáo dục và Đào tạo) phối hợp với Hiệp hội hàng năm tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ quản lý, chuyên viên hợp tác quốc tế ở các cơ sở giáo dục Việt Nam.
Một số hình ảnh trong khuôn khổ tọa đàm: