Trường đại học địa phương là các trường đại học công lập đa ngành trực thuộc ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố. Ở những trường đại học địa phương, một số ngành trọng điểm chỉ tuyển các thí sinh có hộ khẩu thường trú trong địa bàn tỉnh đó và một số tỉnh lân cận.
Trường đại học địa phương có chức năng đào tạo nguồn nhân lực chủ yếu cho địa phương và khu vực lân cận; nghiên cứu khoa học, hợp tác và chuyển giao công nghệ để giải quyết các vấn đề cấp thiết của địa phương, của doanh nghiệp; trung tâm giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và trung tâm văn hóa của địa phương.
Những khó khăn của các cơ sở giáo dục địa phương hiện nay
Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Trần Lăng - Hiệu trưởng Trường Đại học Phú Yên khẳng định: Các trường đại học địa phương ở Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với đặc thù địa phương. Tuy nhiên, vấn đề toàn cầu hóa, sự phát triển thiếu cân đối trong hệ thống các trường đại học, yêu cầu tự chủ đại học… khiến các trường đại học địa phương hiện nay gặp nhiều khó khăn, thách thức. Điều này đòi hỏi các trường buộc phải có hướng đi đột phá, cần phải đổi mới về hoạt động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và các hoạt động khác nhằm nâng cao khả năng thích ứng với tình hình mới.
Tiến sĩ Trần Lăng cũng chỉ ra những khó khăn mà các cơ sở giáo dục địa phương nói chung gặp phải hiện nay:
Thứ nhất, sức cạnh tranh rất lớn với các trường đại học trung ương, các trường top trên trong công tác tuyển sinh để thu hút người học. Toàn cầu hoá kéo theo sự cạnh tranh gay gắt giữa các cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt trong công tác tuyển sinh. Thậm chí, thế mạnh của trường đại học địa phương là đào tạo những ngành truyền thống cũng không còn, buộc phải chuyển sang đào tạo các ngành mới để phù hợp với người học. Điều này kéo theo sự suy giảm chất lượng đào tạo và gây thừa nguồn nhân lực do sự không tương ứng giữa cung và cầu của địa phương.
Điểm sàn xét tuyển đầu vào trường đại học địa phương không thể thấp hơn các trường đại học có cùng ngành nghề, chương trình đào tạo với các trường được cho là top dưới nhưng chịu sự quản lý hành chính nhà nước của trung ương, các bộ, ngành nên người học thường lựa chọn học các trường đại học ở các thành phố lớn, thành phố trực thuộc trung ương.
Thứ hai, khó khăn trong tuyển sinh: Thực tế cũng chỉ ra, các trường đại học địa phương trong những năm gần đây đều trong tình trạng khó tuyển sinh. Mặc dù có ngưỡng đầu vào thấp nhưng các trường vẫn “ế” thí sinh. Thậm chí khi mức điểm chuẩn chỉ ở mức 3-4 điểm/môn vẫn không tuyển đủ chỉ tiêu.
Nguyên nhân trước tiên là đại học không phải là con đường duy nhất để người lao động lập thân do rất nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học không tìm được việc làm và rơi vào cảnh thất nghiệp phải đi làm công nhân. Chính vì thế, rất nhiều học sinh sau khi kết thúc học phổ thông lựa chọn cơ sở đào tạo nghề, các trường nghề, hoặc đi du học, xuất khẩu lao động…
Nguyên nhân thứ hai là quan điểm có bằng đại học, học ở các trường danh tiếng, dễ xin việc làm và có thu nhập ổn định. Vì vậy, người học cũng chọn những trường ở top trên.
Thứ ba là khó khăn trong vấn đề tự chủ: Tự chủ đại học có nhiều mặt ưu điểm như giúp các trường đại học tháo gỡ được nhiều vướng mắc về quản lý nhà nước, về hoạt động của nhà trường, quản lý của bộ chủ quản. Tự chủ đại học là cơ hội để nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Khi áp dụng cơ chế tự chủ, các trường đại học sẽ có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn từ việc đầu tư nghiên cứu khoa học đến thay đổi chương trình đào tạo và khẳng định thương hiệu. Tự chủ đại học là gắn liền với trách nhiệm cho nên mỗi trường sẽ tự lựa chọn cho mình một hướng đi phù hợp để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Hiện nay rất ít trường đại học địa phương tự chủ về mặt tài chính lẫn học thuật. Nếu chưa tự chủ được thì vẫn còn cơ chế “xin - cho”, định mức chi vẫn tuân thủ theo quy định, ảnh hưởng đến khả năng thu hút nguồn nhân lực.
Nguyên nhân ngoài việc do những vướng mắc về cơ chế, thì một phần quan trọng khác là do các trường chưa đủ năng lực và thiếu sự sẵn sàng. Các trường đại học vẫn chưa mạnh dạn thực thi sự tự chủ, vẫn mang tâm lý e dè, thói quen phụ thuộc nhiều vào sự quản lý của Nhà nước.
Tự chủ tài chính là vấn đề quan trọng của tự chủ đại học, nếu không đảm bảo về nguồn thu sẽ là thách thức lớn. Trường còn phụ thuộc nhiều vào nguồn thu học phí, trong khi các nguồn thu về chuyển giao công nghệ, dịch vụ còn ít. Trong bối cảnh tuyển sinh khó khăn và nhiều biến động, nguồn thu học phí trở nên không bền vững, nguy cơ rủi ro cao nếu nhu cầu thị trường lao động bão hòa.
Ngoài ra, một số văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập chậm ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung, dẫn đến thiếu tính đồng bộ.
Theo Hiệu trưởng Trường Đại học Phú Yên, một trong những khó khăn lớn nữa của các trường đại học địa phương là cơ sở vật chất. Hầu hết ở các trường, quỹ này được trích từ nguồn thu nhưng không nhiều vì vậy việc xây dựng cơ sở vật chất mang tính từng bước. Để các trường mạnh dạn đăng ký tự chủ hoàn toàn, cần hoàn thiện về mặt hạ tầng, cơ sở vật chất, nghĩa là tự chủ nhưng cần Nhà nước đầu tư ban đầu.
Thứ tư, khó khăn trong thu hút đội ngũ giảng viên, mở mã ngành: Đa số trường đại học địa phương nằm trên địa bàn tỉnh. Việc thu hút đội ngũ giảng viên gặp nhiều khó khăn bởi thu nhập thấp, môi trường làm việc hạn chế, ít cơ hội gia tăng thu nhập. Thêm vào đó, các trường đại học địa phương đa phần đào tạo đa ngành, nhưng theo quy định hiện nay, muốn mở ngành đào tạo thì cần tối thiểu 1 tiến sĩ và số thạc sĩ phù hợp với chuyên ngành.Trong khi đó, phải chịu áp lực từ việc tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy. Vì vậy, việc mở mã ngành đối với các trường đại học địa phương càng khó khăn hơn.
Đầu tư mở một ngành đã khó, mở ngành xong, nhà trường lại gặp phải 2 thách thức: tình hình kinh tế - xã hội thay đổi nhanh chóng nên một số ngành không còn phù hợp với nhu cầu địa phương, quá trình tuyển sinh gặp khó, dẫn đến dôi dư đội ngũ giảng viên. Trong khi đó, một số ngành có nhu cầu cao thì lại thiếu nhân sự cơ hữu. Tình trạng thừa/thiếu cục bộ tại một số trường làm cho quá trình sử dụng nguồn nhân lực không hiệu quả, gây lãng phí ngân sách nhà nước, trì trệ chương trình đào tạo.
Thứ năm, khó khăn trong định vị vị trí, thực hiện chức năng phục vụ xã hội: Toàn cầu hóa đã kích thích sự phát triển của khoa học - công nghệ, từ đó đòi hỏi lực lượng lao động phải không ngừng nâng cao trình độ để theo kịp sự phát triển của khoa học - công nghệ. Tuy nhiên, với xuất phát điểm còn thấp cả về cơ sở vật chất, trình độ đội ngũ giảng viên và nguồn lực tài chính thì việc đào tạo đáp ứng đúng nhu cầu xã hội theo đúng sứ mệnh đã tuyên bố cũng gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo ở các trường đại học địa phương.
Về cơ cấu tổ chức, nhân sự, nguồn lực giảng viên, cơ sở vật chất và các điều kiện khác phục vụ giảng dạy của trường đại học địa phương cũng được tổ chức như các trường đại học khác, trong đó thiếu vắng sự tham gia đóng góp từ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong cộng đồng địa phương. Điều này đang đi ngược lại với sự phát triển của trường đại học địa phương, có nghĩa là trường đại học địa phương cần dựa vào chính các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong cộng đồng của tỉnh để cung ứng nhân lực phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế toàn cầu hoá.
Ngoài ra, Tiến sĩ Trần Lăng cũng trăn trở hiện nay, trong những chức năng của các trường đại học là đào tạo, nghiên cứu và phục vụ xã hội nhưng nhiều trường đại học địa phương chỉ tập trung vào đào tạo. Nhiều giảng viên nghĩ rằng họ không có trách nhiệm trong việc tham gia xây dựng phát triển kinh tế xã hội địa phương. Vì thế họ không dành thời gian cho việc tìm hiểu về nhu cầu xã hội và nắm bắt thông tin thị trường, hầu như không tiếp xúc với các doanh nghiệp. Các trường đại học địa phương cũng ít nghiên cứu về nhu cầu nhân lực và nhu cầu khoa học công nghệ của địa phương. Việc đào tạo chủ yếu theo chỉ tiêu phân bổ, thiếu sự khuyến khích động viên về kinh tế, chính trị, tinh thần đối với giảng viên trong việc tham gia phục vụ xã hội.
Trong khi đó, theo Tiến sĩ Vũ Văn Tuyến - Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa: Mô hình các trường đại học địa phương về bản chất chỉ khác nhau ở cấp quản lý trực tiếp chứ hoàn toàn không có cơ chế đặc thù. Trong bối cảnh triển khai thực thi tự chủ tài chính hiện nay là một thách thức lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại, phát triển của các trường.
“Thiết nghĩ, phải gạt bỏ cơ chế bao cấp, nuôi dưỡng từ cơ quan chủ quản nhưng cũng phải thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước bằng góc nhìn từ hiện tại bằng sự thấu hiểu, chia sẻ và cảm thông đối với các nhà trường. Thay thế cơ chế “bao bọc” bằng chính sách gắn chặt nhiệm vụ chuyên môn, nhiệm vụ chính trị của các trường với kế hoạch, chiến lược phát triển của địa phương. Từ đó có các chương trình đầu tư phù hợp với nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng để các trường ổn định nguồn tài chính, ngân sách dành cho hoạt động”, thầy Tuyến nhấn mạnh.
Cùng bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Đặng An Long - Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh nhận định: Hiện nay các trường đại học, cao đẳng địa phương rất cần sự quan tâm của chính quyền địa phương đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại phục vụ dạy học phù hợp theo hướng phát triển mới. Nơi nào có sự đóng góp của địa phương thì nơi đó các trường đại học, cao đẳng sẽ phát triển rất tốt, công tác tuyển sinh cũng rất tốt, mang lại lợi ích học tập cho cộng đồng.
Theo Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua Hội thảo khoa học “Chính quyền địa phương ở Việt Nam và sự phát triển của các trường đại học, cao đẳng trực thuộc” do Câu lạc bộ các trường đại học địa phương thuộc Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam tổ chức, các cơ sở giáo dục địa phương có thể học hỏi lẫn kinh nghiệm lẫn nhau. Bởi mỗi địa phương có một cách làm khác nhau nên mỗi nơi khi gặp những tình huống cụ thể có thể chia sẻ để các đơn vị khác rút kinh nghiệm. Do đó, hội thảo là nơi quy tụ lại đóng góp trí tuệ của các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng địa phương, biến thành trí tuệ tập thể. Từ đó, mỗi trường cũng nhận được thêm kinh nghiệm từ nơi khác để ứng dụng cho đơn vị mình ngày càng tốt hơn.
Lối đi nào dẫn đến sự ổn định và phát triển của các cơ sở giáo dục địa phương?
Đề xuất một số hướng phát triển cho các trường đại học, cao đẳng địa phương, Hiệu trưởng Trường Đại học Phú Yên bày tỏ: Trước hết, cần xây dựng chiến lược phát triển phù hợp với từng trường và từng địa phương, tạo bản sắc độc đáo riêng để tồn tại và phát triển.
“Muốn cho trường đại học công lập địa phương ổn định và phát triển thì cần xây dựng chiến lược phát triển phù hợp với từng trường và từng địa phương và cần phải xác định đây là mô hình trường đa ngành theo định hướng ứng dụng, đặc biệt, trường phải có ngành sư phạm, có như vậy mới làm được nhiệm vụ phục vụ sự phát triển của địa phương.
Bên cạnh chịu sự quản lý hành chính nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì các trường đại học địa phương luôn có mối quan hệ đan xen, đa chiều với các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp, công ty, đơn vị sản xuất kinh doanh, nhà máy, xí nghiệp… trên địa bàn tỉnh để cùng thực hiện nhiệm vụ kinh tế, chính trị. Vì vậy, trường đại học cần liên kết với các doanh nghiệp trong công tác đào tạo và tuyển dụng. Đó là phương thức nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, giúp người học rèn luyện kỹ năng, tích lũy kinh nghiệm thực tế; đồng thời tạo cơ hội tìm kiếm việc làm cho sinh viên tại chính các doanh nghiệp hợp tác”, thầy Lăng nhận định.
Cũng theo Hiệu trưởng Trường Đại học Phú Yên, các cơ sở giáo dục địa phương cần được hỗ trợ bằng chính sách "đặt hàng"; đào tạo từ các doanh nghiệp, trong quá trình đào tạo nhà trường mời doanh nghiệp tới trường để tuyển dụng sinh viên. Đặc biệt, nhà trường cũng có những ưu đãi cho sinh viên khi vào trường như cam kết chất lượng đầu ra, việc làm… nhằm "trải thảm"; đón sinh viên.
Các trường đại học địa phương có thể đáp ứng nhu cầu của cộng đồng nơi trường đóng cũng như tìm kiếm cơ hội làm tăng nguồn lực bằng việc bán các dịch vụ đào tạo cho giới công nghiệp, tư nhân và cộng đồng. Các trường này cần có đầy đủ chương trình đào tạo khác nhau để có thể đáp ứng toàn diện cho các nhu cầu của cộng đồng, doanh nghiệp cũng như các thành phần kinh tế khác nhau. Điều này chính là yếu tố tạo ra sự khác biệt của loại trường này bởi trường chuyên ngành có khả năng đáp ứng theo hướng cung cấp kỹ năng.
Đặc biệt, theo thầy Lăng cần chuẩn hóa trình độ đội ngũ giảng viên: Theo yêu cầu đổi mới giáo dục nói chung, để thực hiện nhiệm vụ dạy học nhằm phát triển năng lực người học, trước hết người dạy phải nâng cao trình độ chuyên môn, trau dồi kỹ năng nghề nghiệp.
Ngoài những quy định chung đối với đạo đức, trình độ chuyên môn, người giảng viên giảng dạy ở các trường đại học cần phải:
Nâng cao trình độ chuyên môn. Phấn đầu đạt học vị tiến sĩ đáp ứng các yêu cầu mới về giảng dạy đại học và chất lượng đào tạo hiện nay.
Biết và sử dụng được ngoại ngữ để nâng cao trình độ chuyên môn theo chuẩn quốc tế, để cập nhật kiến thức, thực hiện nhiệm vụ hội nhập và liên kết đào tạo với các cơ sở nước ngoài.
Không ngừng đổi mới phương pháp, kỹ năng giảng dạy. Thực hiện yêu cầu lý thuyết gắn với thực hành/thực tiễn, biết hướng dẫn người học giải quyết được các vấn đề thực tế, rèn kỹ năng nghề nghiệp.
Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học gắn với việc ứng dụng vào thực tiễn đời sống, gắn với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất của địa phương. Trường cần có những nhóm chuyên gia có khả năng đáp ứng/ thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học của địa phương, có khả năng liên kết với đồng nghiệp, sinh viên các đơn vị/ trường khác để tạo nguồn lực mạnh cần thiết.
Ngoài ra, các trường đại học, cao đẳng địa phương muốn duy trì ổn định cần đào tạo bám sát nhu cầu thị trường lao động: Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, thị trường lao động ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá chất lượng đào tạo. Do đó, các trường đại học địa phương cần tăng cường khảo sát nhu cầu lao động theo từng ngành nghề làm cơ sở cho việc điều chỉnh, thay đổi cơ cấu, quy mô ngành nghề đào tạo của mình bám sát nhu cầu thực tiễn. Điều này giúp khắc phục tình trạng thừa so với nhu cầu thực tế.
Đồng thời, các trường cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức, các nước phát triển để trao đổi, chuyển giao công nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực mà địa phương đang có nhu cầu lớn, nhất là lĩnh vực công nghệ cao.
Vấn đề thiết lập quan hệ với nhà sử dụng lao động (các trường phổ thông, mầm non, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) trên địa bàn và lân cận cũng cần được đẩy mạnh. Trên cơ sở này sẽ thúc đẩy việc ký kết hợp đồng đào tạo và cung ứng lao động theo nhu cầu, giúp đảm bảo đầu ra, tạo dựng niềm tin, sự hấp dẫn và thuyết phục đối với người học trong việc lựa chọn các trường đại học địa phương để theo học.
Bên cạnh đó, việc đào tạo ở các trường đại học địa phương cũng cần chú ý đến nhu cầu xuất khẩu lao động của địa phương để tham gia vào tiến trình đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng các yêu cầu lao động của các quốc gia có nhu cầu. Điều này góp phần thu hút các đối tượng đã tốt nghiệp phổ thông lựa chọn việc học ở các trường đại học địa phương để làm khâu trung gian trước khi xuất khẩu lao động.
Cuối cùng, các trường cần xây dựng chương trình đào tạo phù hợp, cân bằng kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp. Thực trạng hiện nay cho thấy việc dạy học ở các cơ sở giáo dục đại học còn mang nặng tính hàn lâm, lý thuyết. Trong khi đó, các trường đại học địa phương đã dần xác định theo định hướng ứng dụng. Do đó, các nội dung kiến thức mang tính hàn lâm, lý thuyết nên được tinh gọn để tăng cường thời lượng cho việc giáo dục, rèn luyện kỹ năng. Đặc biệt là vấn đề đào tạo ngoại ngữ cho người học được xem là một công cụ quan trọng trong việc hội nhập thì cần phải được quan tâm một cách đúng mức.
Đề xuất các trường đại học địa phương được quy định theo loại hình “trường đại học cộng đồng”
Theo Tiến sĩ Trần Lăng, hệ thống các trường đại học địa phương đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc cung ứng nguồn nhân lực cho các tỉnh. Tuy nhiên, hiện nay, vị trí và vai trò của các trường đại học địa phương trong tổng thể hệ thống giáo dục Việt Nam vẫn chưa được xác định một cách rõ ràng và chính thức. Điều này đã gây ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại của các trường đại học địa phương. Vì vậy, Nhà nước cần quy hoạch mạng lưới và phân định chức năng một các đầy đủ cho các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam, trong đó có các trường đại học địa phương.
“Theo tôi, các trường đại học địa phương nên được quy định theo loại hình “trường đại học cộng đồng” với vai trò là “lối đi” nhằm thực hiện các chức năng cơ bản: liên thông và chuyển tiếp để người học địa phương tiếp cận giáo dục đại học (chuyển tiếp vào đại học vùng hoặc đại học quốc gia). Để thực hiện được mục tiêu này thì quy chế đào tạo liên thông và chuyển tiếp cần được sửa đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế.
Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có trường đại học cần phải tạo điều kiện, giao chỉ tiêu, đặt hàng để các trường đại học địa phương tiếp tục đào tạo giáo viên cho các địa phương; tạo điều kiện và có cơ chế hành lang pháp lý để các trường đại học sư phạm phải kết nối với các trường đại học địa phương tại các địa phương được giao phụ trách trong việc triển khai thực hiện “chương trình phổ thông mới” và thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy, lựa chọn sách giáo khoa mới cho địa phương.
Chính phủ cần chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung các nghị định, hướng dẫn để đồng bộ với Luật số 34/2018/QH14 và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, chẳng hạn như: cơ chế tài chính, đặt hàng đào tạo, khoa học và công nghệ, quản lý tài sản công, tuyển dụng người nước ngoài.
Ngoài ra, tăng đầu tư ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học. Thành lập Ban Chỉ đạo về tự chủ đại học và Bộ Giáo dục và Đào tạo là thường trực. Đồng thời, chỉ đạo các cơ quan quản lý trực tiếp hướng dẫn các cơ sở giáo dục đại học trực thuộc thành lập, kiện toàn hội đồng trường và các vị trí lãnh đạo chủ chốt theo quy định của Luật số 34/2018/QH14 và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP”, thầy Lăng kiến nghị.
Cũng theo Hiệu trưởng Trường Đại học Phú Yên, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đẩy nhanh xây dựng, ban hành các quy chế, quy định, cẩm nang hướng dẫn. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục đại học, thúc đẩy ứng dụng công nghệ trong quản lý giáo dục đại học, hỗ trợ nâng cao năng lực các cơ sở giáo dục đại học qua các đề án, dự án.
Lãnh đạo các địa phương cần quan tâm hơn, giao cho các trường đại học địa phương (nếu đủ điều kiện) trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giáo viên, bồi dưỡng nâng ngạch, thăng hạng ở các địa phương.
Đối với cơ sở giáo dục đại học, cần nâng cao năng lực quản lý và hiểu biết pháp luật cho đội ngũ cán bộ quản lý. Hoàn thiện hệ thống văn bản, quy chế nội bộ, phân cấp mạnh tới các đơn vị chuyên môn. Tăng cường công khai, minh bạch, dân chủ cơ sở trong mọi hoạt động. Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để thực hiện tự chủ trong giai đoạn tới.
Tiến sĩ Vũ Văn Tuyến cũng đưa ra một số kiến nghị đối với sự phát triển của các cơ sở giáo dục địa phương trong thời gian sắp tới: “Mặc dù đặc thù mỗi tỉnh còn gặp nhiều khó khăn khách quan khác nhau. Tuy nhiên từ kinh nghiệm thực tiễn có thể thấy chính quyền địa phương (cơ quan chủ quản) phải có chính sách, cơ chế về đầu tư xây dựng cơ bản và đầu tư khuyến khích, đãi ngộ. Đây là điều kiện về nguồn lực để các trường có “vốn” ban đầu dành cho hoạt động và phát triển. Thiếu đầu tư thì trường đại học địa phương sẽ khó có cơ hội tồn tại.
Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các chính quyền cấp tỉnh cần tìm ra giải pháp ổn định, lâu dài; đặc biệt là tìm ra cơ chế về nguồn kinh phí cấp cho nhiệm vụ đặt hàng đào tạo giáo viên theo Nghị định 116. Việc cân đối được nguồn ngân sách này có ý nghĩa rất lớn đối với nhiệm vụ đào tạo, tuyển sinh của các trường đại học địa phương có hoạt động đào tạo sư phạm”.
Trong khi đó, Tiến sĩ Trần Thị Mai Đào - Chủ tịch hội đồng trường Trường Đại học Phạm Văn Đồng cho rằng cần tiếp tục phát huy vai trò của trường đại học địa phương trong việc thực hiện kế hoạch giáo dục theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018, đặc biệt đối với những nội dung giáo dục mới ở các cấp học.
“Hiện nay, các địa phương đã và đang thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Với sứ mệnh đã công bố, các trường đại học địa phương đã và đang cùng các cơ sở giáo dục trên địa bàn xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục theo chương trình mới, đảm bảo yêu cầu thực hiện chương trình giáo dục phổ thông linh hoạt, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương và cơ sở giáo dục; tham gia nghiên cứu, gợi mở, định hướng tính chủ động, sáng tạo của tổ chuyên môn và giáo viên trong việc thực hiện chương trình; hướng dẫn khai thác, sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới.
Các trường đại học địa phương, đặc biệt là các trường có đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên có thể tham gia vào hoạt động toàn diện, giúp các trường phổ thông, giúp giáo viên phổ thông xây dựng phân phối chương trình, xây dựng kế hoạch giáo dục, kế hoạch dạy học môn học, cập nhật, vận dụng kiến thức vào thực tiễn tại địa phương trong quá trình dạy học”, cô Đào bày tỏ.
Tuy nhiên, theo cô Đào, trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, thực tế là các trường đại học địa phương mặc dù vẫn đang tổ chức đào tạo các ngành sư phạm nhưng gần như không được tham gia vào việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên để thực hiện chương trình này. Đến nay Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn chỉ tập trung hỗ trợ các trường đại học sư phạm trọng điểm trên toàn quốc chứ chưa quan tâm đến các trường đại học địa phương (có đào tạo ngành sư phạm).
Chính vì vậy, cô Đào đề nghị Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam tiếp tục có những giải pháp, kiến nghị để nâng cao vai trò, trách nhiệm của các trường đại học địa phương trong công tác triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tại mỗi địa phương theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW.