Sáp nhập viện nghiên cứu vào CSGDĐH: Bước tiến quan trọng hình thành đại học nghiên cứu thực sự

13/11/2025 06:28
ĐÀO HIỀN
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Đây được xem là bước tiến chiến lược hướng tới mô hình “đại học thông minh”, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

Trong bối cảnh đổi mới hệ thống giáo dục đại học gắn với yêu cầu nâng cao năng lực nghiên cứu, việc tăng cường liên kết giữa trường đại học và viện nghiên cứu đang được đặt ra như một hướng đi tất yếu. Không chỉ nhằm tối ưu nguồn lực và cơ sở vật chất, mà còn hướng đến mục tiêu hình thành các trung tâm nghiên cứu mạnh, có khả năng dẫn dắt tri thức và chuyển giao công nghệ.

Từ thực tiễn đó, tinh thần sáp nhập các viện nghiên cứu vào các đại học quốc gia và đại học trọng điểm nhận được các ý kiến đồng tình cao.

Mô hình Viện Hàn lâm Khoa học tại Việt Nam và hạn chế trong đào tạo đại học

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Khoa - Ủy viên Hội đồng Giáo sư ngành Vật lý, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Vinh cho biết: Mô hình Viện Hàn lâm Khoa học tại Việt Nam về cơ bản được kế thừa từ mô hình của Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây, với cấu trúc gồm các viện nghiên cứu chuyên ngành như Viện Vật lý, Viện Toán học... Các viện này cũng tham gia đào tạo sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ) và có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của khoa học, giáo dục và đào tạo.

Tuy nhiên, ảnh hưởng của Viện Hàn lâm Khoa học đối với quá trình đào tạo ở bậc đại học hiện còn rất hạn chế. Các kết quả nghiên cứu, đặc biệt là về phương pháp luận chưa lan tỏa mạnh mẽ đến sinh viên - lực lượng lao động chất lượng cao trong tương lai. Điều này khiến kết quả nghiên cứu và đổi mới sáng tạo chưa được chuyển hóa hiệu quả vào thực tiễn.

Theo Giáo sư Đinh Xuân Khoa, nguyên nhân chính khiến kết quả nghiên cứu chưa lan tỏa mạnh đến sinh viên là họ chưa có cơ hội trực tiếp tham gia, làm việc trong môi trường nghiên cứu của các viện khoa học, dẫn đến việc chưa hình thành năng lực nghiên cứu và tư duy sáng tạo ngay trong quá trình học tập.

Vậy nên, trong bối cảnh đổi mới hệ thống giáo dục hiện nay, việc sáp nhập một số viện nghiên cứu vào các đại học trọng điểm được đánh giá là phương án khả thi, vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, vừa phù hợp với chủ trương phát triển giáo dục đại học nghiên cứu.

Về lợi ích, chủ trương này sẽ khắc phục tình trạng tách rời giữa nghiên cứu và nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời nâng cao chất lượng nghiên cứu, chất lượng đào tạo và thúc đẩy sự phát triển chung của hệ thống giáo dục đại học. Hơn nữa, việc sáp nhập còn giúp tối ưu hóa việc sử dụng chung nhân lực, cơ sở vật chất và tài chính trong toàn hệ thống.

Tuy nhiên, khi sáp nhập cần tạo động lực cân bằng giữa công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo cho đội ngũ này.

“Đây là vấn đề phức tạp, bởi KPI của các viện nghiên cứu chủ yếu tập trung vào kết quả nghiên cứu, trong khi KPI của các đại học đánh giá đồng thời cả nghiên cứu, giảng dạy và phục vụ cộng đồng”, thầy Khoa cho hay.

Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân dân Đinh Xuân Khoa. Ảnh: Trường Đại học Vinh.
Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân dân Đinh Xuân Khoa. Ảnh: Trường Đại học Vinh.

Trong khi đó, theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Quản Thành Thơ - Trưởng khoa Khoa học và Kỹ thuật Máy tính, Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng: Hiện nay mô hình Viện Hàn lâm Khoa học ở Việt Nam được tổ chức như một cơ quan nghiên cứu độc lập, chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản, đề xuất chính sách và chuyển giao công nghệ. Điển hình là Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST).

Trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học và hội nhập quốc tế, khi xu thế toàn cầu đang hướng tới mô hình “đại học nghiên cứu”, nơi hoạt động đào tạo và nghiên cứu được tích hợp chặt chẽ thì mô hình viện nghiên cứu tách rời khối đào tạo đại học sẽ ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế.

Cụ thể, sự tách biệt này khiến việc hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh liên ngành trong trường đại học gặp khó khăn. Nội dung đào tạo chậm được cập nhật theo kết quả nghiên cứu mới và nguồn lực nghiên cứu chưa được khai thác hiệu quả cho công tác đào tạo, đặc biệt là ở bậc sau đại học.

Từ đó, Phó giáo sư Quản Thành Thơ nhận định, để đáp ứng yêu cầu phát triển đại học nghiên cứu và thúc đẩy mối liên kết giữa đào tạo - nghiên cứu - ứng dụng, cần tiến tới các mô hình tích hợp hơn, như viện nghiên cứu trực thuộc trường đại học hoặc trung tâm nghiên cứu trong đại học hoạt động theo cơ chế tự chủ, gắn chặt với đào tạo sau đại học, nghiên cứu ứng dụng và doanh nghiệp.

564610943-1118739437112707-5430776365566795808-n.jpg
Phó giáo sư, Tiến sĩ Quản Thành Thơ - Trưởng khoa Khoa học và Kỹ thuật Máy tính, Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh). Ảnh: website nhà trường.

Phân tích nguyên nhân khiến hoạt động nghiên cứu và đào tạo ở Việt Nam vẫn còn tách rời, Phó giáo sư, Tiến sĩ Quản Thành Thơ cho rằng, gốc rễ nằm ở thể chế và cơ chế quản lý chưa đồng bộ. Hiện các viện nghiên cứu và trường đại học chịu sự quản lý của những cơ quan khác nhau, khiến việc phối hợp thiếu tính liên thông. Thêm vào đó, sự chênh lệch về cơ chế tài chính, tiêu chí đánh giá và việc sinh viên ít được tham gia nghiên cứu khiến mối gắn kết giữa hai bên càng lỏng lẻo.

Chưa kể không ít nơi cơ sở vật chất nghiên cứu hiện đại chưa được khai thác hiệu quả cho đào tạo, trong khi chương trình học lại chưa cập nhật theo hướng nghiên cứu mới, làm khoảng cách giữa hai lĩnh vực ngày càng lớn.

Do đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Quản Thành Thơ cho rằng, đề xuất sáp nhập các viện nghiên cứu vào những đại học lớn để hình thành mô hình “đại học nghiên cứu thực sự” là một hướng đi có cơ sở chiến lược rõ ràng và khả thi trong bối cảnh hiện nay, song cần được triển khai theo lộ trình bài bản, đi kèm các điều kiện bảo đảm cần thiết.

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã thành công trong việc hợp nhất viện - trường để hình thành những đại học đa ngành, đa lĩnh vực, có năng lực nghiên cứu mạnh và đào tạo trình độ cao.

Ở Việt Nam, Nghị quyết 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo cùng các văn bản liên quan cũng đã xác định rõ định hướng “nghiên cứu sáp nhập các viện nghiên cứu với cơ sở giáo dục đại học”. Như vậy, về mặt chủ trương, đây là bước đi phù hợp và có cơ sở pháp lý vững chắc.

gdvn-nckh-dao-hien.jpg
Mô hình “đại học nghiên cứu thực sự” là một hướng đi có cơ sở, song cần thực hiện bài bản. Ảnh minh họa: Đào Hiền.

Tuy nhiên, tính khả thi trong thực thi lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chuẩn bị nguồn lực, cơ chế quản trị, ổn định nhân sự, bảo đảm quyền lợi người học và cán bộ, đặc biệt là sự hài hòa về văn hóa tổ chức để tránh xáo trộn.

Phó giáo sư, Tiến sĩ Quản Thành Thơ nhấn mạnh: “Nếu chỉ ghép viện vào trường một cách cơ học mà không đi kèm cải cách quản trị, đầu tư nguồn lực và định hướng rõ ràng về nghiên cứu - đào tạo, hiệu quả sẽ rất thấp.”

Về lợi ích, thầy Thơ cho rằng việc sáp nhập có chọn lọc sẽ giúp tập trung và tối ưu hóa nguồn lực, bao gồm nhân lực (giảng viên, nhà nghiên cứu), cơ sở vật chất (phòng thí nghiệm, thiết bị) và tài chính, qua đó nâng cao năng lực nghiên cứu ứng dụng, đào tạo sau đại học, nghiên cứu liên ngành và hợp tác quốc tế.

Chưa kể, mô hình này còn gắn kết chặt chẽ hơn giữa đào tạo và nghiên cứu, giúp sinh viên có cơ hội tham gia đề tài thực chất ngay trong quá trình học, đồng thời rút ngắn khoảng cách giữa kết quả nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn.

Bên cạnh đó, việc hình thành các đại học đa ngành - đa lĩnh vực - liên ngành sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế. Đồng thời giúp đơn giản hóa quản trị, giảm đầu mối, tăng tự chủ và nâng cao thương hiệu cho các trường đại học sau sáp nhập.

Tuy nhiên, thầy Thơ cũng cảnh báo quá trình triển khai nội dung này sẽ đặt ra không ít thách thức, trước hết là sự khác biệt về văn hóa tổ chức và quyền lợi nhân sự. Bởi, viện và trường đại học có truyền thống, cơ chế và phong cách làm việc khác nhau, nên sáp nhập có thể tạo ra tâm lý e ngại, xáo trộn vị trí hoặc động lực của cán bộ, giảng viên, nhà nghiên cứu.

Thứ hai là vấn đề quản trị khi việc hợp nhất không thể chỉ dừng ở “ghép đầu mối”, mà phải thiết kế lại toàn bộ cơ chế điều hành, tài chính, nhân sự, chương trình đào tạo và nghiên cứu.

Thứ ba, cần chuẩn hóa chương trình đào tạo và hoạt động nghiên cứu, bảo đảm chất lượng và quyền lợi người học trong giai đoạn chuyển tiếp. Ngoài ra, nguồn lực đầu tư ban đầu cùng yêu cầu ổn định mô hình mới cũng là một vấn đề cần quan tâm.

Cuối cùng, giữ được bản sắc và thế mạnh riêng của từng đơn vị cũng là yêu cầu quan trọng để bảo đảm tính đa dạng, tránh việc “một tổ chức lớn nuốt chửng tổ chức nhỏ hơn”, làm mất đi giá trị tích lũy và uy tín học thuật vốn có.

Sáp nhập viện nghiên cứu để nâng tầm đào tạo và ứng dụng

Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Quản Thành Thơ, việc sáp nhập các viện nghiên cứu vào các đại học lớn mở ra nhiều cơ hội để các trường trọng điểm nâng cấp lên mô hình “đại học nghiên cứu”. Khi viện trực thuộc trường, các đại học sẽ nhanh chóng tiếp cận nguồn lực nhân lực nghiên cứu cao cấp, phòng thí nghiệm và dự án, từ đó thúc đẩy năng lực nghiên cứu, công bố quốc tế và chuyển giao công nghệ.

Chẳng hạn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh với chiến lược “VNU 350” đã thu hút nhà khoa học trẻ xuất sắc và nâng cao công bố quốc tế, cho thấy xu hướng tăng cường nghiên cứu chiến lược tại các đại học. Khi viện nghiên cứu trở thành bộ phận trực thuộc đại học, bộ máy đào tạo và nghiên cứu sẽ liên kết chặt hơn, sinh viên được tiếp cận đề tài, chương trình đào tạo liên tục được cập nhật, đồng thời trường tham gia sâu hơn vào mạng lưới nghiên cứu toàn cầu.

Khi viện nghiên cứu trở thành bộ phận trực thuộc trường, bộ máy đào tạo và nghiên cứu sẽ liên kết chặt hơn. Ảnh: website Đại học Quốc gia TPHCM.
Khi viện nghiên cứu trở thành bộ phận trực thuộc trường, bộ máy đào tạo và nghiên cứu sẽ liên kết chặt hơn. Ảnh: website Đại học Quốc gia TPHCM.

Tuy nhiên, để mô hình này vận hành hiệu quả, các trường cần xây dựng cơ chế liên thông giữa đào tạo và nghiên cứu, gắn kết chương trình với nhu cầu thị trường và doanh nghiệp, áp dụng quản trị chuyên nghiệp. Cũng như đảm bảo môi trường quốc tế và liên ngành thông qua tăng cường sinh viên và cán bộ tham gia nghiên cứu quốc tế, công bố quốc tế và hợp tác doanh nghiệp.

Để việc sáp nhập viện nghiên cứu vào các đại học trọng điểm đạt hiệu quả và tránh xáo trộn, Phó giáo sư, Tiến sĩ Quản Thành Thơ cho rằng Nhà nước cần tăng quyền tự chủ đồng thời tăng trách nhiệm giải trình cho các đại học.

Cụ thể, các trường cần được tự chủ trong tổ chức bộ máy, nhân sự, tài chính và hoạt động nghiên cứu - đào tạo, đồng thời gắn cơ chế kiểm soát kết quả nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo và nghiên cứu.

Nhà nước cũng cần xây dựng chính sách thu hút nhà khoa học trẻ và quốc tế, bao gồm tuyển dụng linh hoạt, hỗ trợ khởi nghiệp nghiên cứu, chính sách lương thưởng và môi trường làm việc tốt. Việc tập trung đầu tư và tận dụng hạ tầng nghiên cứu sẵn có sẽ hình thành các “trung tâm nghiên cứu mạnh”, tránh phân tán nguồn lực, tăng tính liên ngành và đa ngành, đồng thời tạo hiệu quả khuếch tán cao hơn.

Ngoài ra, cần khuyến khích hợp tác giữa trường - viện - doanh nghiệp - quốc tế thông qua các chính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính, thuế hoặc đồng tài trợ cho dự án ứng dụng. Đồng thời thúc đẩy chương trình hợp tác nghiên cứu quốc tế để nâng cao năng lực nghiên cứu trong nước.

Cuối cùng, cơ chế tài chính và đầu tư nghiên cứu cần rõ ràng, theo lộ trình và gắn mục tiêu chất lượng, đảm bảo nguồn lực được phân bổ hiệu quả, thúc đẩy đào tạo, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo tại các đại học trọng điểm.

gdvn-dao-hien-nckh.jpg
Sáp nhập viện - trường tạo cơ hội cho sinh viên được tiếp cận đề tài, chương trình đào tạo liên tục được cập nhật. Ảnh minh họa: Đào Hiền.

Còn theo Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Xuân Khoa, việc sáp nhập các viện nghiên cứu vào các đại học trọng điểm không chỉ thúc đẩy gắn kết giữa nghiên cứu và đào tạo mà còn tăng cường ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.

Thầy Khoa nhấn mạnh, mô hình đại học hiện đại hướng tới “đại học thông minh” và “đại học đổi mới sáng tạo”, trong đó nguồn nhân lực từ các viện nghiên cứu đóng vai trò quan trọng để hình thành đại học nghiên cứu. Ngược lại, hoạt động đào tạo cũng sẽ thúc đẩy nghiên cứu và đổi mới sáng tạo, tạo ra giá trị thiết thực phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.

Giáo sư Khoa cũng lưu ý, để việc sáp nhập đạt hiệu quả, Nhà nước cần tăng cường đầu tư nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu và đổi mới sáng tạo cho các đại học trọng điểm thông qua cơ chế đặt hàng. Đồng thời, cần tạo điều kiện để các đại học trọng điểm đóng góp mạnh mẽ hơn trong tư vấn chính sách và phản biện xã hội, vốn là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các viện nghiên cứu hiện nay.

ĐÀO HIỀN