Viện nghiên cứu làm gì để đạt mục tiêu số lượng đơn đăng ký sáng chế tăng 16-18%/năm?

18/10/2025 07:44
Hồng Mai
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Tỷ lệ đăng ký sáng chế trong cơ sở đào tạo còn hạn chế một phần do quy trình đăng ký sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa vẫn còn rào cản với nhà nghiên cứu.

Một trong những mục tiêu được Bộ Chính trị đặt ra trong Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đến năm 2030 số lượng đơn đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16-18%/năm, tỷ lệ khai thác thương mại đạt 8-10%.

Theo lãnh đạo một số viện nghiên cứu, hiện nay, số lượng đơn đăng ký sáng chế và văn bằng bảo hộ sáng chế vẫn chưa nhiều, do nhà khoa học chủ yếu tập trung công bố bài báo khoa học, trong khi việc đăng ký sáng chế còn hạn chế bởi chi phí cao, thời gian thẩm định kéo dài và thiếu cơ chế hỗ trợ hiệu quả.

Số lượng đăng ký sáng chế còn khiêm tốn do nhiều nguyên nhân

Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ca - Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên cho biết, trong những năm gần đây, mỗi năm, đơn vị chỉ có khoảng 1-2 đơn đăng ký sáng chế/giải pháp hữu ích được nộp và chấp nhận. Tính đến nay, nhà trường mới được cấp tổng cộng 3 bằng sáng chế và giải pháp hữu ích.

Nguyên nhân chính dẫn đến số lượng đăng ký sáng chế/giải pháp hữu ích hiện vẫn còn khá khiêm tốn do nhà khoa học của trường chủ yếu tập trung vào công bố bài báo quốc tế, thực hiện đề tài, dự án nghiên cứu mà chưa chú trọng nhiều đến việc đăng ký sáng chế hay giải pháp hữu ích.

Bên cạnh đó, chi phí để đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích khá cao, trong khi đơn vị chưa hỗ trợ kinh phí đăng ký mà chỉ hỗ trợ khi được cấp bằng. Tuy nhiên mức hỗ trợ vẫn còn khiêm tốn, 40 triệu đồng/sáng chế và 30 triệu đồng/giải pháp hữu ích. Một lý do nữa là thời gian cấp văn bằng kéo dài từ 3-5 năm, gây mất nhiều thời gian cho nhà khoa học.

Đồng tình với quan điểm trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Thị Hồng Hải - Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học, Đại học Huế nhận định, đến nay, viện đã làm chủ 2 bằng độc quyền giải pháp hữu ích; 1 nhãn hiệu hàng hóa đã được cấp giấy chứng nhận; 1 nhãn hiệu hàng hóa đã có quyết định chấp nhận đơn hợp lệ; 1 giải pháp hữu ích đã có quyết định chấp nhận đơn hợp lệ do cán bộ viện là tác giả, Đại học Huế làm chủ đơn.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Thị Hồng Hải (bên phải) - Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học, Đại học Huế. Ảnh: NVCC

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Thị Hồng Hải (bên phải) - Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học, Đại học Huế. Ảnh: NVCC

Giai đoạn 2024-2025, viện có thêm 1 giải pháp hữu ích do cán bộ viện làm tác giả, Đại học Huế làm chủ đơn đã có quyết định chấp nhận đơn hợp lệ; 1 nhãn hiệu hàng hóa đã nộp đơn.

Tỷ lệ đăng ký sáng chế trong cơ sở đào tạo còn hạn chế một phần do quy trình đăng ký sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa vẫn còn rào cản đối với nhiều nhà nghiên cứu. Phần lớn nhà khoa học tập trung vào công tác chuyên môn, viết bài báo khoa học mà chưa chú trọng đến việc bảo hộ kết quả nghiên cứu bằng sáng chế.

Bên cạnh đó, hạn chế về kiến thức chuyên sâu liên quan đến thị trường cũng khiến việc chuyển giao sản phẩm, quy trình gặp nhiều khó khăn. Quá trình tiếp cận các nguồn đầu tư, cũng như chương trình hỗ trợ từ Nhà nước còn hạn chế, trong khi nguồn nhân lực và đội ngũ chuyên gia chuyên sâu trong lĩnh vực này vẫn còn mỏng. Ngoài ra, nhiều đơn vị chưa có cán bộ chuyên trách phụ trách công tác đăng ký sáng chế, sở hữu trí tuệ.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Thị Hồng Hải cho biết, để hỗ trợ nhà nghiên cứu trong quá trình hoàn thiện hồ sơ đăng ký sáng chế và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đơn vị đã triển khai nhiều chính sách cụ thể.

Viện đã xây dựng kế hoạch khoa học công nghệ hàng năm và phân bổ chỉ tiêu nghiên cứu, bao gồm cả chỉ tiêu về sáng chế và sở hữu trí tuệ đến từng trung tâm và phòng thí nghiệm.

Song song với đó, đơn vị đồng hành, hỗ trợ giảng viên và nhà khoa học trong việc xác lập sáng chế, giải pháp hữu ích cũng như đăng ký nhãn hiệu chứng nhận cho sản phẩm.

Ngoài ra, viện còn đẩy mạnh nghiên cứu gắn với chuyển giao, như các dự án sản xuất thử nghiệm quy mô lớn có sự tham gia của doanh nghiệp, nhằm tăng tính ứng dụng và khả năng thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Ngoài ra, để góp phần thực hiện mục tiêu nâng tỷ lệ khai thác thương mại đạt 8 - 10% đến năm 2030 tại Nghị quyết 57, viện thành lập doanh nghiệp khoa học công nghệ nhằm thúc đẩy thương mại hóa sản phẩm, qua đó tạo động lực và gia tăng tỷ lệ thương mại hóa các sáng chế.

Đẩy mạnh nghiên cứu gắn với nhu cầu thị trường

Khi Viện nghiên cứu đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu gắn với nhu cầu thị trường, kết quả khoa học sẽ không chỉ dừng lại ở tính hàn lâm mà còn được chuyển hóa thành những sản phẩm, dịch vụ và giải pháp có khả năng ứng dụng thực tiễn cao. Điều này giúp rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu và sản xuất, tăng hiệu quả đầu tư cho khoa học công nghệ, đồng thời mở ra cơ hội hợp tác với doanh nghiệp để thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Hoài Nam – Phó Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Năng lượng và Môi trường, trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam: “Để gia tăng số lượng đơn đăng ký và văn bằng bảo hộ sáng chế, tôi cho rằng cần nhìn nhận trên hai khía cạnh.

Thứ nhất, cần đẩy mạnh và khuyến khích các nhiệm vụ khoa học công nghệ, định hướng phát triển hoặc hoàn thiện công nghệ. Đây chính là hoạt động cốt lõi nhằm nâng cao năng lực công nghệ, đồng thời là “nguyên liệu” quan trọng để hình thành đơn đăng ký và văn bằng bảo hộ sáng chế trong tương lai.

Thứ hai, viện sẽ xây dựng cơ chế khuyến khích nhóm nghiên cứu và nhà sáng chế dành nhiều nguồn lực, thời gian hơn cho việc chủ động bảo hộ công nghệ. Thực tế cho thấy, không ít nhà khoa học, nhà sáng chế thực hiện công tác chuyên môn rất tốt, hoàn thiện được nhiều công nghệ có giá trị, song lại chưa thật sự chủ động trong việc nộp đơn đăng ký sáng chế.

Cùng với đó, hoạt động khoa học công nghệ tại Viện Khoa học Công nghệ Năng lượng và Môi trường sẽ được ưu tiên định hướng vào việc phát triển giải pháp, công nghệ gắn với nhu cầu của thị trường. Điều này đòi hỏi viện phải tăng cường khảo sát, cũng như tham gia các chương trình, dự án phối hợp với doanh nghiệp và đơn vị đặt hàng, để nắm bắt chính xác nhu cầu công nghệ trong lĩnh vực năng lượng, môi trường và khoa học công nghệ biển.

Từ việc hiểu rõ nhu cầu thực tiễn, nhà khoa học và kỹ sư của viện sẽ có điều kiện xây dựng những nhiệm vụ, dự án công nghệ vừa có tiềm năng, vừa có triển vọng thị trường, qua đó góp phần thúc đẩy nhu cầu đăng ký và bảo hộ sáng chế”.

bai-dang-3.png
Tiến sĩ Nguyễn Hoài Nam – Phó Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Năng lượng và Môi trường, trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam. Ảnh: NVCC

Tiến sĩ Nguyễn Hoài Nam cũng cho biết thêm, là đơn vị nghiên cứu trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Khoa học Công nghệ Năng lượng và Môi trường xác định sẽ thực hiện đầy đủ định hướng phát triển khoa học công nghệ được nêu tại Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam lần thứ IX, nhiệm kỳ 2025 – 2030 và góp phần hiện thực hóa mục tiêu tại Nghị quyết 57.

Theo đó, viện ưu tiên tăng cường năng lực nghiên cứu và triển khai công nghệ cho đội ngũ cán bộ thông qua hoạt động khoa học, công nghệ và hợp tác quốc tế; đồng thời chú trọng thu hút nhân lực chất lượng cao, hình thành và phát triển nhóm nghiên cứu mạnh nhằm nâng cao hiệu quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ.

Viện cũng xác định tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng, triển khai và thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ, khuyến khích hoạt động đổi mới sáng tạo. Cùng với đó, viện sẽ phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp và cơ sở sản xuất để nhanh chóng đưa kết quả nghiên cứu, phát triển công nghệ phục vụ thiết thực đời sống và phát triển kinh tế - xã hội.

“Với mục tiêu được đặt ra tại Nghị quyết 57, chúng ta có cơ sở để hy vọng rằng, đến năm 2030, chất lượng nghiên cứu, năng lực của đội ngũ khoa học cũng như các sản phẩm công nghệ của Việt Nam trong một số lĩnh vực sẽ vươn lên vị thế hàng đầu khu vực, tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo.

Sau năm 2030, mục tiêu hướng tới là hình thành những nhóm nghiên cứu mạnh và đạt được thành tựu khoa học công nghệ có khả năng tiệm cận trình độ tiên tiến trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương”, Tiến sĩ Nguyễn Hoài Nam khẳng định.

t9-vast-day-manh-nghien-cuu.jpg
Viện Khoa học Công nghệ Năng lượng và Môi trường ưu tiên nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai công nghệ cho đội ngũ cán bộ. Ảnh minh họa: Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Trong khi đó, theo Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên, để góp phần hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 tỷ lệ khai thác thương mại các sáng chế đạt 8-10%, đơn vị xác định trách nhiệm không chỉ dừng ở việc gia tăng số lượng đơn đăng ký và văn bằng bảo hộ, mà quan trọng hơn là tập trung vào khai thác và thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Theo đó, chiến lược phát triển của Viện Khoa học và Công nghệ cũng như Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên tập trung vào 4 hướng chính. Trước hết, nhà trường chú trọng xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh, phòng thí nghiệm trọng điểm và trung tâm khởi nghiệp - đổi mới sáng tạo, qua đó tạo môi trường thuận lợi để giảng viên, người học phát triển ý tưởng, chuyển giao và ươm tạo công nghệ.

Đồng thời, trường chủ động ký kết các thỏa thuận hợp tác với doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu nhằm đưa sáng chế/giải pháp hữu ích vào thực tiễn sản xuất, đặc biệt ở những lĩnh vực mà khu vực trung du và miền núi phía Bắc có nhu cầu lớn như nông nghiệp công nghệ cao, vật liệu - môi trường, y dược và công nghệ thông tin.

Cùng với đó, trường triển khai quỹ hỗ trợ khởi nghiệp - sở hữu trí tuệ, khuyến khích giảng viên và sinh viên đăng ký sáng chế/giải pháp hữu ích gắn với mục tiêu ứng dụng. Song song với đó, đội ngũ chuyên gia tư vấn về pháp lý, sở hữu trí tuệ và kết nối đầu tư cũng được xây dựng để đồng hành cùng nhóm nghiên cứu trong quá trình thương mại hóa.

Ngoài ra, nhà trường sẽ tăng cường hỗ trợ kinh phí thông qua nhóm nghiên cứu mạnh, tạo điều kiện để nhà khoa học và nhóm nghiên cứu có thể thương mại hóa sáng chế của mình.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ca nhấn mạnh: “Nếu đạt được mục tiêu về tốc độ tăng trưởng đơn đăng ký sáng chế và tỷ lệ thương mại hóa đến năm 2030 theo Nghị quyết 57, diện mạo nghiên cứu khoa học của Việt Nam sẽ có những thay đổi căn bản và mang tính đột phá.

Trước hết, số lượng sáng chế gia tăng đồng nghĩa với việc nhiều kết quả nghiên cứu được bảo hộ, có giá trị sở hữu trí tuệ rõ ràng, tạo nền tảng pháp lý quan trọng cho hoạt động chuyển giao công nghệ. Khi sáng chế được đưa vào sản xuất, chúng sẽ trở thành những sản phẩm có hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao, đóng góp thiết thực cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Trường đại học, viện nghiên cứu sẽ trở thành trung tâm ươm tạo công nghệ, nơi ý tưởng khoa học nhanh chóng được thử nghiệm, hoàn thiện và đưa ra thị trường. Xu hướng này cũng mở ra động lực mới, khuyến khích nhiều nhà khoa học trẻ gắn bó với con đường nghiên cứu, sáng chế, khởi nghiệp và chuyển giao công nghệ.

Quan trọng hơn, khoa học và công nghệ sẽ thực sự trở thành động lực phát triển đất nước như tinh thần Nghị quyết 57 đã khẳng định. Đây được xem là bước ngoặt để Việt Nam vươn lên nhóm quốc gia có nền khoa học ứng dụng năng động trong khu vực, đồng thời khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu”.

image.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ca - Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên. Ảnh: NVCC

Còn theo Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học, Đại học Huế, để mục tiêu gia tăng đăng ký sáng chế và văn bằng bảo hộ đạt hiệu quả cả về chất lượng lẫn số lượng, cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu gắn với chuyển giao, như những dự án sản xuất thử nghiệm quy mô lớn có sự tham gia của doanh nghiệp.

Nhà nước cần hỗ trợ và tạo điều kiện cho nhà khoa học tham gia chương trình hướng dẫn đăng ký sáng chế, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; đồng thời tăng cường tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng về sở hữu trí tuệ để nâng cao năng lực tư vấn pháp lý chuyên sâu.

Bên cạnh đó, việc phát triển các doanh nghiệp khoa học công nghệ cũng là giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy thương mại hóa sản phẩm, đưa kết quả nghiên cứu và sáng chế nhanh chóng đi vào thực tiễn.

Hồng Mai