LTS: Theo Phó Giáo sư Đặng Bá Lãm, Chương trình giáo dục phổ thông mới nên hoãn lại một thời gian để có sự chuẩn bị chu đáo hơn.
Chi phí cao nhưng Chương trình dự kiến đem ra áp dụng trong thời gian tới chưa có có ý tưởng mới, chưa đáp ứng sự thay đổi của thời đại và đòi hỏi của đất nước.
Sau đây là một số ý tưởng về những thay đổi căn bản và toàn diện hơn nữa chương trình giáo dục phổ thông của Phó Giáo sư Đặng Bá Lãm.
Tòa soạn trân trọng giới thiệu đến độc giả.
Giáo dục phổ thông phải thực sự đa diện.
Luật Giáo dục 2019, Điều 29 nêu: Giáo dục phổ thông giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ.... Như vậy giáo dục chủ yếu bao gồm 4 mặt, tức là giáo dục tứ diện hay là giáo dục đa diện.
Phụ huynh rất quan tâm đến chương trình giáo dục phông và sách giáo khoa mới. Ảnh: TT |
Tuy vậy theo tôi cần thay đổi sự ưu tiên trong cách sắp xếp các mặt giáo dục với thứ tự theo tầm quan trọng là: Thể, Đức, Trí, Mỹ.
Nghĩa là: Sức khỏe (Cả thể chất và tinh thần), quan hệ xã hội, hiểu biết thế giới, năng lực thẩm mỹ (cảm xúc và hành vi).
Vì sao phải đặt giáo dục sức khỏe (cả thể chất và tinh thần) lên hàng đầu? Vì rằng đó là đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống.
Trong thực tiễn đây là mặt cần nhất cho cuộc sống, quyết định các mặt còn lại và vì vậy được mọi người quan tâm trước hết và hơn hết.
Chương trình giáo dục phổ thông mới có gì khác chương trình hiện hành? |
Phải có sức khỏe thì mới học tập và làm việc được, mới có thể rèn luyện đạo đức, trí tuệ, cảm xúc thẩm mỹ.
Đưa giáo dục sức khỏe lên vị trí hàng đầu là một sự thay đổi lớn lao. Để thực hiện sự thay đổi đó, ngành giáo dục từ những người quản lý, nghiên cứu, đến nhà trường, nhà giáo, từ xây dựng chương trình đến thực hiện chương trình, ở đâu cũng phải đặt giáo dục sức khỏe lên trên hết.
Quá trình trẻ em học ở trường phổ thông (từ 6 đến 18 tuổi) cũng là quá trình trẻ trưởng thành, trở thành công dân của xã hội.
Phần lớn thời gian trẻ em sống ở trường, mỗi tuần 5/7 ngày, mỗi ngày 8/16 giờ. Vì vậy, nhà trường phải giáo dục cho trẻ cách chăm sóc sức khỏe một cách khoa học, rèn luyện cách ăn mặc, nghỉ ngơi, cách chống lại các tác động có hại cho sức khỏe...
Nhà trường cũng cần theo dõi tiến bộ về thể chất học sinh hằng năm như theo dõi kết quả các môn học xưa nay.
Cuối mỗi năm cần đánh giá học sinh về sự thay đổi về thể chất, đối chiếu với tiêu chuẩn theo lứa tuổi thì ở tình trạng nào, có gì bất thường không, cần có giải pháp gì để can thiệp.
Nhà trường, nhà nước theo dõi diễn biến sức khỏe của học sinh qua các năm, qua các thế hệ để đánh giá biến động của quá trình đó và có giải pháp thích hợp để cải thiện tình hình sức khỏe, chiều cao, cân nặng của thiếu niên, thanh niên.
Phân bố lại chương trình để đảm bảo sự cân bằng của các mặt giáo dục
Việc thực sự coi trọng các mặt giáo dục, trong đó ưu tiên cho giáo dục sức khỏe trước hết phải thể hiện vào phân bố thời gian cho các mặt giáo dục trong chương trình.
Ví dụ chương trình giáo dục tiểu học với việc học 2 buổi ngày, 7 tiết/ngày, 31 tiết/tuần, thì trong “giáo dục tứ diện” hàng tuần, phải giành tương đối đồng đều cho mỗi mặt giáo dục khoảng 8 tiết.
Chương trình hay sách giáo khoa quan trọng, Bộ cần định hướng rõ ràng hơn |
Sức khỏe 8 tiết, quan hệ xã hội 8 tiết, hiểu biết thế giới 8 tiết, năng lực thẩm mỹ 8 tiết. Ngày nào học sinh cũng được rèn luyện về các mặt đó dưới các hình thức khác nhau.
Cách thay đổi đó sẽ là thực sự giảm một cách căn bản đối với việc nhồi nhét kiến thức môn học của chương trình hiện hành.
Những người xưa nay quen nghĩ rằng học sinh đến trường để học các kiến thức môn học sẽ cho rằng như thế thì học sinh học được ít quá.
Cần quan niệm rằng học sinh đến trường để sống và sẽ học qua cuộc sống đó chứ không phải chỉ học trong giờ dành cho kiến thức về môn học.
Lúc các em rèn luyện sức khỏe, học cách ứng xử xã hội, học đàn, học hát, học nhảy, học múa… là các em đang học và đang sống, chứ không phải chỉ học toán, học văn mới là học.
Trong lúc các em học về sức khỏe, ứng xử, thẩm mỹ cũng đồng thời là học cách tư duy (từ trướcđến nay là độc diễn của môn toán) và học cách sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp (từ trước đến nay là độc diễn của môn Văn-Tiếng Việt).
Chương trình các cấp bậc học trên tiểu học là trung học cơ sở, trung học phổ thông cũng phải thay đổi triệt để theo quan niệm đó.
Thay đổi cấu trúc nhà trường phổ thông và cấu trúc đội ngũ thầy giáo
Để thực hiện được sự thay đổi lớn lao của chương trình giáo dục phổ thông như thế cần thay đổi các điều kiện kéo theo là đội ngũ thầy giáo và cơ sở trường lớp cũng như cách tổ chức, quản lý nhà trường.
Từ trước đến nay nói đến giáo dục người ta chỉ nghĩ đến truyền thụ kiến thức nên chỉ chuẩn bị các điều kiện về thầy giáo và trường lớp để làm việc đó.
Chương trình, sách giáo khoa mới- nhìn từ Nghị quyết 88 của Quốc hội |
Nếu thay đổi quan niệm, thực sự thực hiện giáo dục đa diện thì trong đội ngũ nhà giáo của một trường, một lớp, phải có đủ người để thực hiện các mặt giáo dục như giáo dục sức khỏe, giáo dục thẩm mỹ, phải có chuyên gia dinh dưỡng, chuyên gia tâm lí, sức khỏe tinh thần, giáo viên dạy múa, hát, vẽ…
Các điều kiện vật chất của nhà trường cũng phải được bổ sung như: sân chơi, bể bơi, phòng thi đấu, phòng nhảy, phòng vẽ, phòng tư vấn…
Hiện nay một số trường tư đã phần nào nắm bắt xu hướng thay đổi giáo dục và nhu cầu xã hội mong muốn thay đổi, đã đầu tư phát triển theo hướng này và đã thu hút nhiều học sinh.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cần nhanh chóng nắm bắt xu hướng đó và thay đổi kịp thời để thiết kế và thực hiện chương trình giáo dục mới.
Cũng cần thay đổi quan niệm cho rằng mọi tri thức cần cung cấp cho học sinh đều phải đem hết vào chương trình và thực hiện tại lớp học.
Trong thực tế, học sinh tích lũy tri thức từ nhiều môi trường hoạt động. Chương trình và giáo viên chỉ cần hướng dẫn cho học sinh những phương hướng chính.
Chương trình tiểu học và trung học cơ sở không cần quá chặt chẽ, quá logic và đòi hỏi mọi học sinh phải nắm vững như nhau theo cùng tiến độ. Chỉ cần đến cuối năm, cuối cấp học sinh đạt được các yêu cầu cơ bản nêu ra.
Chương trình trung học phổ thông có tính chặt chẽ, tính logic cao hơn các cấp học dưới. Nhưng ở trung học phổ thông cũng phải đảm bảo tính cân đổi giữa các nội dung giáo dục thể, đức, trí, mỹ nghĩa là trí dục chỉ chiếm ¼ thời lượng của chương trình.
Với thời lượng như vậy về trí dục phải cắt giảm đến khoảng 2/3 khối lượng xưa nay. Trên thế giới cũng như ở nước ta đa số có nhận xét là chương trình trí dục xưa nay học nhiều nhưng áp dụng rất ít, rất nặng nề nhưng ít thiết thực.
Cần thay đổi cơ bản chương trình để giảm phần lớn gánh nặng kiến thức cố nhồi nhét cho học sinh.
(*) Tít chính và tít phụ do Tòa soạn đặt