Hành trình 80 năm giáo dục phát triển đất nước

04/09/2025 11:04
Linh An
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN -Ngay khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Bộ Quốc gia Giáo dục được thành lập, với nhiệm vụ xây dựng nền giáo dục hoàn toàn mới, của dân, do dân và vì dân.

Nhân dịp kỉ niệm 80 năm thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục, nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo (28/8/1945 – 28/8/2025), Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam trích lược một số nội dung về giáo dục kể từ ngày thành lập nước qua từng giai đoạn để thấy rõ nền giáo dục đã bền bỉ kiến tạo con người, dựng xây đất nước, tạo nên những kì tích trong thời đại Hồ Chí Minh.

Sự khởi đầu của nền giáo dục cách mạng

Giai đoạn 1945 – 1954 là một thời kỳ đặc biệt và đầy thử thách trong lịch sử dân tộc. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, đất nước đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn: “thù trong giặc ngoài”, kinh tế kiệt quệ, 95% dân số mù chữ…

1.jpg
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hoè đứng hàng đầu thứ 2 từ trái sang.

Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định xóa nạn mù chữ là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên (5/9/1945), Người đã gửi gắm nhiều kì vọng: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.

Hiện thực hóa tầm nhìn chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiệm vụ "diệt giặc dốt" được triển khai mạnh mẽ qua phong trào Bình dân học vụ; biến việc học chữ Quốc ngữ thành nghĩa vụ bắt buộc và miễn phí cho toàn dân.

Cùng với đó, một nền giáo dục hoàn toàn mới được định hình, dựa trên ba nguyên tắc cốt lõi: dân tộc hoá (lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ chính), khoa học hoá (chống lối học giáo điều) và đại chúng hoá (phục vụ đông đảo nhân dân). Ngày 2/3/1946, trong Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa I, Bộ Quốc gia Giáo dục được đổi tên thành Bộ Giáo dục.

Khi cuộc kháng chiến lan rộng, giáo dục đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, trở thành một mặt trận thực sự với phương châm "Học để kháng chiến". Điểm nhấn quan trọng của sự chuyển hướng này là cuộc Cải cách giáo dục toàn diện năm 1950, nhằm kiến thiết một hệ thống giáo dục mới, thống nhất và liên thông, phục vụ trực tiếp cho cuộc chiến và công cuộc kiến quốc tương lai. Cuộc cải cách đã thay thế hệ thống phổ thông 12 năm bằng hệ thống 9 năm gọn nhẹ hơn, đồng thời xây dựng lại toàn bộ chương trình và sách giáo khoa theo hướng thiết thực, khoa học và đậm tinh thần dân tộc.

Giáo dục kháng chiến, kiến quốc

Giáo dục miền Bắc giai đoạn 1954 – 1957 tập trung xóa nạn mù chữ và tiến hành cải cách giáo dục lần hai. Chiến dịch xóa mù chữ lần thứ ba được phát động rộng rãi, huy động lực lượng lớn tình nguyện viên, nhiều địa phương hoàn thành nhiệm vụ ngay cuối năm 1956 – đầu 1957.

Cải cách giáo dục 1956 thiết lập hệ thống phổ thông 10 năm với chương trình giáo dục toàn diện, gắn lý luận với thực tiễn. Đội ngũ giáo viên được đào tạo bài bản hơn. Sách giáo khoa được biên soạn mới.

2.jpg
Bác Hồ quan sát một cháu thiếu nhi tập đánh vần khi đến thăm lớp học vỡ lòng Đình Thạch Khối ở phố Hàng Than, Hà Nội (31/12/1958)

Từ 1958 – 1964, giáo dục trở thành bộ phận trọng yếu của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, chương trình học được củng cố, chú trọng thực hành và lao động sản xuất. Phong trào thi đua “Hai tốt” được phát động, lan rộng góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Các trường đại học phát triển nhanh, từ 5 trường (1959-1960) lên 17 trường (1964-1965), nhiều cán bộ được đào tạo ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.

Giai đoạn 1965 – 1975, khi Mỹ đánh phá miền Bắc, ngành Giáo dục chuyển sang điều kiện thời chiến, sơ tán trường lớp, mở lớp dã chiến, biên soạn chương trình A và B phù hợp với từng vùng. Dù khó khăn, ngành Giáo dục vẫn duy trì, bồi dưỡng tinh thần yêu nước và ý chí kháng chiến.

Giai đoạn này, nền giáo dục miền Nam duy trì song song hai hệ thống: giáo dục dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa và giáo dục trong vùng giải phóng.

Giáo dục cách mạng ở vùng giải phóng miền Nam cũng có những bước phát triển. Từ năm 1954 đến năm 1960 là giai đoạn đặt nền móng, chủ yếu thông qua các lớp bình dân học vụ, hoạt động dưới “vỏ bọc hợp pháp” trong điều kiện khó khăn.

Từ năm 1961 đến năm 1968, cùng với sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, một hệ thống giáo dục cách mạng được thiết lập, có chương trình và sách giáo khoa riêng, trường lớp phát triển mạnh từ mẫu giáo đến bổ túc văn hóa, số học sinh tăng từ khoảng 10.000 (1960-1961) lên khoảng 84.000 (1964).

Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1975, giáo dục chuyển hướng linh hoạt, mở lớp hợp pháp và bán hợp pháp ở vùng ven. Sau Hiệp định Paris, phong trào giáo dục phát triển mạnh mẽ, chuẩn bị cho việc thống nhất nền giáo dục sau giải phóng.

Giai đoạn 1954-1975, dù đất nước bị chia cắt và ngập chìm trong khói lửa chiến tranh, giáo dục vẫn đạt được thành tựu nổi bật. Cuộc cải cách giáo dục 1956 đã xây dựng một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh. Miền Bắc đã cơ bản xóa nạn mù chữ. Hàng vạn cán bộ, trí thức, kỹ sư, bác sĩ, giáo viên được đào tạo trong nước và cử đi đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa; học sinh miền Nam được nuôi dưỡng, đào tạo trên đất Bắc đã trở thành nguồn nhân lực cốt cán phục vụ sự nghiệp thống nhất và xây dựng đất nước trong tương lai.

Nền giáo dục quốc gia thống nhất

Đại thắng Mùa Xuân 1975, non sông thu về một mối. Đất nước thống nhất đặt ra yêu cầu cấp thiết xây dựng một nền giáo dục thống nhất. Giai đoạn 1975 – 1986 là một chặng đường lịch sử đặc biệt, ghi dấu những nỗ lực phi thường của ngành Giáo dục Việt Nam, trong bối cảnh đất nước còn bộn bề khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại, do bị bao vây, cấm vận và những hệ lụy của cơ chế quản lí tập trung, quan liêu, bao cấp nhưng giáo dục vẫn đạt được nhiều thành tựu quan trọng.

Trong đó, nổi bật nhất là thống nhất thành công hệ thống giáo dục quốc dân; mạng lưới trường lớp vẫn được duy trì và mở rộng đến khắp các vùng miền; thành công trong xoá mù chữ, nâng cao dân trí; đồng thời xây dựng hệ thống đường lối, chính sách giáo dục toàn diện - kim chỉ nam cho hoạt động của ngành nhiều năm sau đó.

3.jpg
Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Thị Bình trò chuyện cùng các giáo viên và học sinh Trường Lê Ngọc Hân, Hà Nội (ngày 15/9/1976)

Quá trình phát triển của giáo dục trong thời kỳ này có thể chia thành hai giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn 1975 – 1978, tập trung vào các nhiệm vụ cấp bách hậu chiến, tiếp quản, ổn định và thống nhất bước đầu hệ thống giáo dục trên phạm vi cả nước. Giai đoạn 1979 – 1986, triển khai cuộc Cải cách giáo dục toàn diện lần thứ ba trong bối cảnh đời sống kinh tế – xã hội gặp nhiều khó khăn, thử thách.

4.jpg
Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại lễ tuyên dương và phát thưởng cho học sinh giỏi Thủ đô năm học 1981-1982 (ngày 01/6/1982)

Những năm từ 1979 – 1986, kinh tế - xã hội đất nước gặp rất nhiều khó khăn đã tác động trực tiếp và nặng nề đến giáo dục. Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục rất hạn hẹp (chỉ chiếm 3,5-3,7% tổng chi ngân sách). Nhưng trong bối cảnh đó, ngành Giáo dục đã triển khai thành công cuộc cải cách, thống nhất thành công hệ thống phổ thông 12 năm trên cả nước. Lần đầu tiên, một bộ chương trình và sách giáo khoa duy nhất được biên soạn và áp dụng, chấm dứt tình trạng dạy học manh mún, thiếu đồng bộ.

Giáo dục là quốc sách hàng đầu

Giai đoạn 1986 đến nay, đất nước bước vào công cuộc đổi mới và hội nhập, giáo dục được xác định là “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 được ban hành, trở thành nền tảng đặc biệt quan trọng để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Cùng với đó, hệ thống pháp luật và chính sách không ngừng được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lí vững chắc để đổi mới giáo dục. Hai lần đổi mới chương trình giáo dục phổ thông (năm 2006 và 2018), đặc biệt là Chương trình giáo dục phổ thông 2018, đánh dấu bước ngoặt lớn trong quan điểm, mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục khi chuyển từ dạy học nặng truyền thụ sang phát triển năng lực, phẩm chất người học. Tất cả đã tạo nên một diện mạo hoàn toàn mới cho giáo dục, cả về quy mô và chất lương.

Những bài học kinh nghiệm qua 80 năm xây dựng và phát triển

Bài học thứ nhất là kiên định định vị con người ở vị trí trung tâm, coi hạnh phúc người học và sự tiến bộ xã hội là thước đo quan trọng, không chạy theo quy mô hay thành tích, mà hướng vào chất lượng thực và sự phát triển toàn diện.

Bài học thứ hai là thể chế phải đi trước một bước. Chỉ khi luật pháp, chính sách rõ ràng, đồng bộ, khả thi, minh bạch, kèm theo đó là cơ chế giải trình, giám sát hiệu quả thì đổi mới mới có điểm tựa bền vững, giảm thiểu rủi ro thực thi.

Bài học thứ ba là giáo dục phải thực sự là sự nghiệp của toàn dân, phải gắn liền với thực tiễn cuộc sống. Mọi chủ trương, quyết sách lớn liên quan đến giáo dục cần được đo lường, thẩm định khách quan; lắng nghe nhà giáo, học sinh, phụ huynh và các chuyên gia; tạo được sự đồng thuận và huy động được sự “chung tay, góp sức” của cả cộng đồng.

Bài học thứ tư là nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện các quyết sách về giáo dục. Không có đội ngũ đủ phẩm chất, năng lực và điều kiện nghề nghiệp tương xứng thì mọi chương trình, sách giáo khoa, thiết bị hay công nghệ… đều không thể phát huy hết tác dụng.

Nhân dịp kỷ niệm 80 năm thành lập Bộ, Bộ Giáo dục và Đào tạo bày tỏ, sự nghiệp giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Với sự lãnh đạo sáng suốt, nhất quán của Đảng; sự quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước; sự đồng hành của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp; cùng tinh thần trách nhiệm, lòng tận tụy và khát vọng đổi mới của đội ngũ nhà giáo, chúng ta có đầy đủ căn cứ để tin tưởng vào những bước tiến mới vững chắc.

Ngành Giáo dục tiếp tục kiên định mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển giáo dục bao trùm, công bằng, chất lượng; gắn kết chặt chẽ giáo dục với khoa học công nghệ và thị trường lao động; chúng ta sẽ xây dựng thành công một nền giáo dục Việt Nam tiên tiến, hiện đại, nhân văn, đậm đà bản sắc dân tộc, là nền tảng vững chắc để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong thế kỷ XXI, hướng đến 100 năm thành lập nước (1945-2045).

* Ảnh tư liệu từ Cổng thông tin điện tử Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Linh An