Ngày 21/6/2021, Chính phủ ban hành Nghị định số 60/2021/NĐ-CP về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập với nhiều thay đổi căn bản, trao quyền tự chủ về tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, quá trình triển khai Nghị định này trên thực tế đã phát sinh một số vướng mắc, cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện tự chủ tài chính
Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hồng Quân - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội (một trong những cơ sở giáo dục đại học đã tự chủ tài chính) khẳng định: “Tự chủ đại học là chủ trương đúng đắn của Nhà nước, phù hợp xu thế phát triển giáo dục đào tạo trên thế giới. Tự chủ đại học mở ra cơ hội để các trường phát triển chiều sâu, tăng tính chủ động, linh hoạt trong mọi hoạt động.
Trong tự chủ đại học thì tự chủ tài chính là nội dung trọng yếu, việc không còn (hoặc giảm dần) sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước khiến các trường phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn như: đảm bảo nguồn thu, mức học phí xuất phát điểm rất thấp và chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu nguồn thu; các nguồn thu khác từ dịch vụ, dịch vụ khoa học, công nghệ, từ viện trợ, tài trợ,… rất thấp”.
Cũng theo thầy Quân, Nghị định số 60/2021/NĐ-CP cùng với Thông tư số 56/2022/TT-BTC hướng dẫn một số nội dung về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập; xử lý tài sản, tài chính khi tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập được Bộ Tài chính ban hành ngày 16/09/2022 có nhiều đổi mới nhằm khắc phục những hạn chế của các quy định trước đây, trong đó đặc biệt đáng lưu ý là những quy định mới, chi tiết hơn về phân loại mức tự chủ tài chính; nguồn tài chính và sử dụng nguồn tài chính; tự chủ tài chính, giao quyền tự chủ cho đơn vị sự nghiệp công lập…
Tuy nhiên, thầy Quân nhận định, quá trình triển khai Nghị định này trên thực tế cũng đã phát sinh một số vướng mắc, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Cụ thể, cần tăng cường tính thống nhất, đồng bộ với Luật Giáo dục đại học và các văn bản pháp luật khác; Hoàn thiện cơ chế tài chính của các trường đại học thông qua việc có cơ chế tài chính phù hợp để huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư cho lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công, nhất là cho giáo dục, kể cả hình thức hợp tác công - tư, liên doanh, liên kết; Quy định chính sách học phí và tài chính hỗ trợ người học phù hợp với điều kiện tự chủ; Cơ chế và chính sách huy động nguồn lực xã hội, đặc biệt là chính sách ưu tiên trong lĩnh vực tiền thuê đất đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập.
Cũng là một trong những đơn vị đã thực hiện tự chủ tài chính, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Châu - Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực cho rằng, cơ chế tự chủ tài chính theo Nghị định số 60/2021/NĐ-CP đã tạo ra bước tiến mới về khuôn khổ pháp lý cho các đơn vị sự nghiệp công lập nói chung, Trường Đại học điện lực nói riêng trong việc chủ động, tích cực tìm cách khai thác nguồn thu và quản lý chi tiêu nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào việc tăng cường kết quả và chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ sự nghiệp công. Tuy nhiên, thực tế triển khai Nghị định đã phát sinh một số tồn tại.
Đơn cử, Điều 29, Nghị định 60/2021/NĐ-CP được xây dựng trên cơ sở kế thừa quy định tại khoản 2 Điều 32 Luật Giáo dục đại học. Theo đó, quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học gồm tự chủ trong học thuật, hoạt động chuyên môn, tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản. Việc Điều 29 của Nghị định 60/2021/NĐ-CP quy định về điều kiện tự chủ nói chung của cơ sở giáo dục đại học sẽ dẫn đến vướng mắc trong quá trình thực hiện như thực hiện phân quyền tự chủ đến từng đơn vị cá nhân…
Qua một thời gian triển khai Nghị định 60/2021/NĐ-CP, thầy Châu nhận thấy, quy định về cách xác định trích nguồn kinh phí thực hiện cải cách tiền lương tại Nghị định này không còn phù hợp thực tế. Do các trường chưa xây dựng được tiền lương theo vị trí việc làm nên chưa xác định được chi phí tiền lương mà vẫn chi từ quỹ thu nhập tăng thêm.
Ngân sách chi thường xuyên hàng năm tiếp tục cắt giảm gây khó khăn cho các đơn vị trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo, đặc biệt là việc hoàn thiện chương trình đào tạo, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị... tiến tới mục tiêu đạt kiểm định trong nước và quốc tế của các trường, từ đó mới có điều kiện tăng năng lực cạnh tranh, có điều kiện tăng học phí góp phần tăng nguồn thu cho các trường.
Mức thu học phí vẫn chưa thể thực hiện lộ trình tính đủ chi phí đào tạo do áp lực cạnh tranh trong tuyển sinh và do tăng học phí sẽ ảnh hưởng đến an sinh xã hội, nên các trường vẫn đưa ra mức học phí chưa tính đủ chi phí, điều này cũng ảnh hưởng đến nguồn thu của đơn vị.
Nguyên nhân khiến các cơ sở giáo dục đại học chưa thể đa dạng nguồn thu
Đối với các cơ sở giáo dục đại học có thể có rất nhiều nguồn thu từ học phí; từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; từ hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoạt động liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân; thu từ cho thuê tài sản công; thu từ nguồn tài trợ, hiến tặng và các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay, ngoài học phí các cơ sở giáo dục gặp khó khăn trong việc gia tăng nguồn thu từ các hoạt động khác.
Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực cho rằng, hiện nay, nguồn thu của các trường đại học chủ yếu dựa vào học phí. Trong khi đó, tỷ lệ các nguồn thu từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, các dịch vụ khác... chiếm tỷ lệ không đáng kể.
Nguồn thu chủ yếu của trường là thu học phí và kinh phí đào tạo trực tiếp của sinh viên, học viên. Hàng năm, trường có quyết định mức thu học phí cụ thể cho từng hệ, bậc đào tạo không vượt quá mức trần theo quy định của nhà nước, công khai cho toàn thể sinh viên, học viên biết và thực hiện. Số tiền học phí thông qua phần mềm vào sổ sách kế toán đầy đủ. Nhà trường cũng xây dựng kế hoạch chi phí cho 1 sinh viên/năm và đề xuất mức thu học phí theo từng năm học để đảm bảo cân đối thu - chi.
Tuy nhiên, theo thầy Châu, quá trình bước vào tự chủ khiến nhiều trường đại học gặp khó trong việc đa dạng hóa các nguồn thu. Một trong những nguyên nhân khó khăn nhất khiến thu từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ thấp là do chưa có cơ chế đặt hàng các dự án, đề tài từ nguồn ngân sách nhà nước cho các trường đại học và sự gắn kết chia sẻ các hoạt động này từ phía doanh nghiệp.
Mặt khác, các trường chưa khai thác được tối đa nguồn lực của nhà trường như: Nhân lực, vật lực, thời lực...; chưa sử dụng được tối đa hiệu suất của tài sản do các trường chưa lập được đề án cho thuê tài sản công trình cấp trên phê duyệt.
Ứng dụng, chuyển giao các đề tài nghiên cứu khoa học thực hiện tại nhiều trường còn khó khăn như: các nhà khoa học chưa liên kết được với doanh nghiệp và các nhà đầu tư; các sản phẩm nghiên cứu khoa học chưa được ứng dụng và chuyển giao công nghệ rộng rãi ra ngoài xã hội.
Bên cạnh đó, nhiều trường chưa chủ động, mở rộng hơn nữa các dịch vụ đào tạo và dịch vụ khác cũng như chưa có nhiều chương trình kết hợp đào tạo giữa nhà trường với doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động.
Ngoài ra, do chưa tìm hiểu sâu được văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài vào giáo dục Việt Nam nên các trường gặp hạn chế hợp tác đào tạo quốc tế, thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài.
Cùng bàn về vấn đề này, Chủ tịch hội đồng trường, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội nhận định: Thực tế, nguồn thu ngoài học phí hiện nay chiếm tỷ lệ rất thấp trong cơ cấu nguồn thu của đa số các trường đại học. Có nhiều nguyên nhân lý giải cho khó khăn này. Trong đó có thể kể đến 2 nhóm nguyên nhân chính gồm:
Nhóm yếu tố nội lực các trường: Đây là yếu tố có ý nghĩa quyết định không chỉ trong việc cải thiện nguồn thu mà còn có vai trò quyết định sự thành công trong quá trình tự chủ của các trường đại học. Phần lớn các trường hiện nay chưa có nguồn lực đủ mạnh trong việc triển khai tốt các hoạt động có thu ngoài học phí như nguồn nhân lực trình độ cao, uy tín thương hiệu, kinh nghiệm quản lý, còn bị động trong công tác chiến lược, kế hoạch…
Nhóm các yếu tố khách quan: Các quy định pháp luật, chính sách hiện nay còn có những điểm thiếu đồng bộ, chưa thông thoáng trong cơ chế vận hành về các quy định chính sách, thể chế, cũng như việc xác định rõ quyền năng, phân cấp, phân quyền giữa hội đồng trường, hiệu trưởng. Các quy định liên quan đặc biệt là về hoạt động sản xuất, kinh doanh; liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân còn thiếu cụ thể và được ban hành chậm hơn so với thực tiễn, nhiều quy định còn chồng chéo, cùng một lúc chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhiều luật và văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.
Trường đại học tăng nguồn thu từ các hoạt động tài trợ, hiến tặng như thế nào?
Thông tin về nguồn thu từ các hoạt tài trợ, hiến tặng hàng năm của trường, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hồng Quân cho biết: Nguồn thu từ các hoạt động tài trợ, hiến tặng hàng năm của nhà trường chưa nhiều và có sự dao động lớn hằng năm, cao nhất chiếm khoảng 10% trong cơ cấu nguồn thu.
Trong bối cảnh hiện nay, tinh thần và phong trào thiện nguyện giáo dục của chúng ta rất cao, nhiều cá nhân, tổ chức rất quan tâm đến việc tài trợ giáo dục. Tuy nhiên, nguồn thu các hoạt động tài trợ, hiến tặng cho giáo dục nói chung còn rất khiêm tốn.
Đối với các nền giáo dục tiên tiến, nguồn thu này lại có vai trò rất quan trọng với các trường đại học, thậm chí trở thành nguồn thường xuyên, quan trọng cho hoạt động của các trường, ví dụ như Đại học Harvard, Stanford, Yale… hay nhiều trường đại học trên thế giới đã làm rất thành công.
“Để khắc phục vấn đề này, các trường đại học ở Việt Nam cũng cần có sự quan tâm đúng mực, cần có chính sách quản lý, thiết lập những bộ phận chức năng cụ thể chịu trách nhiệm tìm kiếm, huy động và quản lý, sử dụng các khoản tài trợ, hiến tặng đảm bảo tính công khai, minh bạch, sử dụng đúng mục đích của người tài trợ, hiến tặng”, thầy Quân nêu quan điểm.
Cũng đồng tình với quan điểm này, Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực nhận định: Thực tế hoạt động hiến tặng ở nước ta chỉ mới được hình thành và chưa thật sự có độ phủ rộng lớn. Nguồn thu từ các hoạt động tài trợ, hiến tặng từ các tổ chức, cá nhân hàng năm của trường không lớn.
Để tăng các nguồn thu trên, nhà trường đã tăng cường nghiên cứu các cơ chế, chính sách để lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của nhà trường. Xây dựng và phát triển mối quan hệ với các doanh nghiệp nhằm huy động các nguồn tài trợ, hiến tặng cho các hoạt động của nhà trường (trường thành lập Trung tâm Hỗ trợ việc làm và Khởi nghiệp); đồng thời giúp doanh nghiệp thấy được lợi ích khi đầu tư vào giáo dục trong nhà trường. Tăng cường khuyến khích, tôn vinh đối với các tổ chức hoặc cá nhân mang lại nguồn thu cho nhà trường.
Những giải pháp tháo gỡ khó khăn từ bài học kinh nghiệm thực tế
Từ bài học tự chủ tài chính của trường, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hồng Quân thông tin: Là đơn vị tự chủ nhóm 1 (tự chủ chi thường xuyên và tự chủ chi đầu tư), Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội đã và đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp vượt qua khó khăn, thách thức nói chung và về tài chính nói riêng để trở thành đại học đào tạo và nghiên cứu khoa học ứng dụng chất lượng cao, là sự lựa chọn hàng đầu của người học, cộng đồng và doanh nghiệp. Cụ thể:
Thứ nhất, nhà trường xác định học phí gắn liền với nâng cao chất lượng, chất lượng đầu ra. Theo đó, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội có mục tiêu chiến lược trở thành đại học đào tạo, nghiên cứu khoa học ứng dụng đa năng, phát triển theo mô hình đại học thông minh, đạt chuẩn quốc tế, giáo dục toàn diện, vì sự phát triển bền vững và hội nhập của người học. Trường luôn chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, máy móc trang thiết bị đào tạo hiện đại; Xây dựng chương trình đào tạo tiên tiến, đội ngũ giảng viên/chuyên gia chất lượng cao nhằm giúp sinh viên tốt nghiệp có đủ năng lực, đạt được các chuẩn đầu ra chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn kiểm định quốc gia, quốc tế.
Do vậy, quan điểm của nhà trường là học phí bắt nguồn và tương xứng với chất lượng đào tạo, chất lượng đầu ra. Khi chất lượng đào tạo của nhà trường tốt, xã hội và người học sẵn sàng chấp nhận mức giá dịch vụ đào tạo cao hơn.
Thứ hai, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính, tài sản: Nhà trường cũng luôn chú trọng việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực tài chính, tài sản. Nhà trường đã xây dựng và cập nhật thường xuyên các quy chế, quy định về tài chính, tài sản phù hợp với quy định pháp luật, thỏa mãn yêu cầu của các bên liên quan như: Quy chế quản lý tài chính; Quy chế chi tiêu nội bộ; Quy chế mua sắm, quản lý sử dụng tài sản; Xây dựng định mức kinh tế kỹ thuật,…
Thứ ba, nhà trường quan tâm thúc đẩy, phát huy thế mạnh nội lực để cải thiện các nguồn thu ngoài học phí như nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, đào tạo ngắn hạn, dịch vụ sự nghiệp khác, đồng thời tìm kiếm thu hút các nguồn lực từ việc xã hội hóa để giảm áp lực tăng học phí.
Ngoài ra, theo Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội: Việc tiếp tục đa dạng hóa và cải thiện chất lượng các nguồn thu là yêu cầu tất yếu với nhà trường trong điều kiện tự chủ hiện nay. Trong chiến lược phát triển giai đoạn 2021-2025 tầm nhìn 2030, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội đã có những mục tiêu, định hướng rõ ràng và toàn diện cho các lĩnh vực hoạt động bao gồm lĩnh vực tài chính.
Về đa dạng hóa nguồn thu, để mở rộng các hoạt động đem lại nguồn thu ngoài học phí, song song với việc hoàn thiện mô hình quản trị đại học hiện đại, nhà trường chú trọng phát triển quan hệ hợp tác đối ngoại, phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, đầu tư trang thiết bị nghiên cứu và đào tạo hiện đại,…
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hồng Quân cũng có một số đề xuất nhằm đa dạng hóa nguồn thu đối với các cơ sở giáo dục đại học. Theo thầy Quân, cần xác định đa dạng nguồn thu ngoài học phí, giảm áp lực lên người học là nhiệm vụ của tất cả các trường đại học. Cơ chế chính sách cũng cần phải hoàn thiện hơn để tạo điều kiện thuận lợi cho các trường thực hiện nhiệm vụ này. Cụ thể:
Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước cần thực hiện rà soát, bổ sung sửa đổi, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật ảnh hưởng trực tiếp tới việc thực thi cơ chế tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học. Mặt khác, cần có quỹ đầu tư phát triển cho vay để đầu tư phát triển dài hạn giúp các trường đầu tư cho phát triển nhất là về cơ sở hạ tầng.
Cơ chế tự chủ tài chính hiện nay còn thiếu tính đồng bộ để tạo môi trường tốt cho các cơ sở giáo dục đại học phát triển. Các cơ sở giáo dục đại học công lập tuy đã được giao tự chủ tài chính chi thường xuyên và đầu tư, song trên thực tế hoạt động vẫn đang tuân thủ và là đối tượng điều chỉnh của nhiều luật, các nghị định và văn bản quy phạm pháp luật khác.
Hoàn thiện và tăng cường tính chủ động để các trường xây dựng phương án hiệu quả sử dụng các tài sản công chưa sử dụng hết công suất vào mục đích cho thuê, liên doanh, liên kết. Hiện nay, vấn đề này đang chịu sự điều tiết của nhiều quy định khác nhau. Vì vậy, sẽ hiệu quả hơn nếu Chính phủ có Nghị định riêng đối với các trường công lập tự chủ, trên cơ sở tích hợp các văn bản pháp luật có liên quan nhằm thống nhất cách nhìn nhận của các cơ quan quản lý Nhà nước, tránh chồng chéo.
Ngoài ra cũng cần hoàn thiện và triển khai các cơ chế, chính sách đầu tư, chi ngân sách của nhà nước đối với giáo dục đại học. Để phát huy hiệu quả nguồn lực cơ sở vật chất, tài chính, nhân lực của các trường đại học, vẫn cần có sự đầu tư, phân bổ từ ngân sách nhà nước thông qua các phương thức phù hợp như đặt hàng, đấu thầu đề tài, đề án nghiên cứu ứng dụng.
Trong khi đó, Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực cho rằng, thực hiện cơ chế tự chủ nói chung và tự chủ về tài chính nói riêng, Trường Đại học Điện lực đã chủ động rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy và nhân sự theo hướng tinh gọn, hiệu quả, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm đáp ứng đầy đủ hơn điều kiện giảng dạy và nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng.
Đặc biệt, nhà trường rất chú trọng đến công tác đảm bảo chất lượng giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo, mở rộng quy mô đào tạo theo nhiều hình thức để cạnh tranh trong tuyển sinh, thu hút người học, hướng tới sự phát triển bền vững của nhà trường.
Trường Đại học Điện lực đã chủ động nghiên cứu các tiêu chí khi quyết định chọn ngành, chọn trường cho các em học sinh để chủ động xây dựng chiến lược, kế hoạch tuyển sinh, truyền thông và tư vấn tuyển sinh để triển khai công tác tuyển sinh một cách hiệu quả.
Nhà trường xây dựng và ban hành chiến lược tổng thể phát triển giáo dục, phân tích dự báo nhu cầu về nguồn nhân lực trình độ cao cho mỗi giai đoạn để có hướng đào tạo phù hợp.
Đồng thời, nhà trường quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho giảng viên, cán bộ của nhà trường.
Tập trung đầy đủ điều kiện đảm bảo chất lượng như thông qua hoạt động tự đánh giá và đánh giá ngoài các chương trình đào tạo, khẳng định chất lượng đào tạo của nhà trường với người học.
Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ; Chủ động, mở rộng hơn nữa các dịch vụ đào tạo và dịch vụ khác của trường với các đơn vị sử dụng lao động; Gắn kết các hoạt động của người học với các doanh nghiệp, tranh thủ các nguồn lực từ doanh nghiệp hỗ trợ người học; Tích lũy nguồn lực đảm bảo ứng phó kịp thời với sự biến động và thay đổi lớn trong xã hội.