Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đào tạo và bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi vẫn còn một số hạn chế nhất định. Thực tế cho thấy phần lớn học sinh đạt thành tích cao đều đi du học và nhiều em ở lại nước ngoài sau khi tốt nghiệp.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng, nguyên nhân dẫn tới việc này là do Việt Nam hiện nay chưa có cơ chế đào tạo thu hút, bồi dưỡng đặc thù dành cho các đối tượng tài năng này dẫn đến hầu hết các em đi học tại nước ngoài. Bên cạnh đó, việc xây dựng mạng lưới kết nối với các cựu học sinh đạt giải chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến khó khăn trong việc huy động nguồn nhân lực chất lượng cao này phục vụ công cuộc đổi mới và phát triển của đất nước.
Chưa xây dựng được “vòng tuần hoàn nhân tài” để sinh viên giỏi trở về cống hiến
Về vấn đề này, trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thanh Long - Phó Trưởng phòng Công tác sinh viên, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ, trong những năm gần đây, việc nhiều học sinh giỏi, đặc biệt là các em đạt huy chương Olympic quốc tế lựa chọn đi du học và ở lại làm việc ở nước ngoài đã trở thành một thực trạng đáng chú ý.
Đây không phải là hiện tượng bất thường trong bối cảnh toàn cầu hoá và dịch chuyển lao động chất lượng cao diễn ra mạnh mẽ, nhưng điều đáng lo ngại là chúng ta vẫn chưa xây dựng được “vòng tuần hoàn nhân tài”, tức là có cơ chế để những người tài năng quay trở về hoặc có thể đóng góp từ xa cho đất nước.
Điều này có thể dẫn đến là nguồn nhân lực khoa học - công nghệ mũi nhọn bị thiếu hụt, đặc biệt ở các lĩnh vực trọng yếu như trí tuệ nhân tạo, vật liệu, năng lượng, cơ khí, tự động hóa và công nghệ sinh học.
Đồng thời, khi hiện tượng này kéo dài, chúng ta phải mất nhiều năm để bù đắp khoảng trống nhân lực trong khi tốc độ phát triển công nghệ trên thế giới thay đổi từng ngày. Có thể nói, hiện tượng “chảy máu chất xám” không chỉ là mất đi nhân tài mà còn làm giảm sức bật khoa học của cả hệ thống.
Vì vậy, Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nêu rõ việc tuyển dụng ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài đến và giảng dạy tại Việt Nam là một bước đi chiến lược. Đây sẽ là đội ngũ nòng cốt giảng dạy chương trình xuất sắc, tài năng đại học và sau đại học.
Cũng theo thầy Long, khi thu hút giảng viên nước ngoài và giảng viên giỏi giảng dạy, cần ưu tiên tập trung vào những lĩnh vực mũi nhọn mà Việt Nam đang thiếu hụt đội ngũ chuyên gia đầu ngành như: Trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, robot và tự động hóa; công nghệ bán dẫn, vật liệu mới, vi điện tử – vi cơ điện tử (MEMS); năng lượng tái tạo; công nghệ sinh học; kinh tế số, logistics thông minh. Đây đều là những lĩnh vực mà khi có sự tham gia của chuyên gia quốc tế sẽ tạo ra được tác động lan tỏa mạnh mẽ nhất.
Tuy nhiên, các giảng viên được tuyển dụng này cần đáp đứng đủ yếu tố và tiêu chuẩn cụ thể. Trước hết là hồ sơ khoa học nổi bật, thể hiện qua các chỉ số WoS/Scopus, H-index, các công bố trên tạp chí uy tín hàng đầu hoặc sở hữu bằng sáng chế. Thứ hai là kinh nghiệm đào tạo và nghiên cứu quốc tế, được tích lũy qua quá trình học tập hoặc làm việc tại các trường đại học danh tiếng trên thế giới. Cuối cùng, giảng viên cần có năng lực xây dựng và dẫn dắt nhóm nghiên cứu mạnh, từng chủ trì các dự án quốc tế và tạo ra sản phẩm nghiên cứu có giá trị thực tiễn.
Nhìn từ thực tiễn để bàn về vấn đề này, chuyên gia giáo dục, Tiến sĩ Nguyễn Sóng Hiền (hiện đang sinh sống và làm việc tại Úc) cho hay, hiện nay Chính phủ Úc đã xây dựng một chính sách thu hút, tuyển dụng và giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao từ các quốc gia trên thế giới hết sức hiệu quả, đóng góp quan trọng trong quá trình ổn định và phát triển nền kinh tế Úc suốt nhiều thập niên qua.
Cụ thể, về mặt nguyên tắc, Chính phủ Úc tạo một lộ trình rõ ràng từ cấp học bổng, đào tạo, thực hành nghề và tạo cơ hội việc làm dài hạn cho các du học sinh cũng như kết hợp hỗ trợ tài chính, học thuật, phi học thuật như hỗ trợ định cư, tư vấn nghề nghiệp.
Ngoài ra còn có các chính sách thu hút cụ thể như cấp học bổng toàn phần, bán phần theo năng lực từ bậc học phổ thông cho đến sau đại học kèm theo điều kiện hỗ trợ việc làm thực tập cho người học.
Mặt khác, Chính phủ Úc còn cung cấp các loại visa hậu tốt nghiệp linh hoạt cho nhiều bậc học, bao gồm cả quyền làm việc, từ visa tạm thời đến visa dành cho nhân tài để lấy quốc tịch trở thành công dân Úc. Chính sách này nhằm thu hút nguồn nhân lực đa dạng về kỹ năng, đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao mà đất nước đang thiếu hụt theo từng giai đoạn.
Từ kinh nghiệm quốc tế, theo chuyên gia Nguyễn Sóng Hiền, Việt Nam đang hướng tới phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ, phát triển kinh tế tri thức. Do đó, việc tuyển chọn giảng viên giỏi từ nước ngoài cần được căn cứ vào những lĩnh vực mà đất nước đang ưu tiên phát triển. Cụ thể, nên ưu tiên tuyển dụng những giảng viên trong những ngành có tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh quốc gia và yêu cầu kỹ thuật cao như công nghệ thông tin; Khoa học dữ liệu; trí tuệ nhân tạo ( AI); an ninh mạng (cybersecurity); kỹ sư dữ liệu (data engineering) và các ngành kỹ thuật, công nghệ cao như robotics, tự động hóa, công nghệ sinh học..
Đồng thời, để tạo ra môi trường học tập và nghiên cứu đủ sức cạnh tranh, các giảng viên này cần là những chuyên gia đầu ngành có năng lực học thuật và nghiên cứu khoa học cũng như các bằng sáng chế hoặc sản phẩm chuyển giao công nghệ.
Ngoài ra, giảng viên cần có kinh nghiệm hợp tác với doanh nghiệp, tham gia triển khai các dự án thực tế hoặc hoạt động hỗ trợ chuyển giao công nghệ cùng khả năng kết nối tạo cơ hội trao đổi học thuật và mở rộng quan hệ đối tác cũng là yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu.
“Bên cạnh những tiêu chí cụ thể, điều quan trọng là cần xây dựng một cơ chế tuyển dụng và giám sát thật sự hiệu quả. Quy trình tuyển dụng phải được thực hiện công khai, minh bạch thông qua hội đồng quốc tế kết hợp với hội đồng trong nước để bảo đảm tính khách quan. Hợp đồng tuyển dụng cần quy định rõ hệ thống KPI gồm nhiệm vụ giảng dạy, hướng dẫn nghiên cứu sinh, công bố khoa học, hoạt động chuyển giao công nghệ và đào tạo đội ngũ giảng viên trong nước”, thầy Hiền chia sẻ.
Đồng quan điểm, theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thanh Long, Nghị quyết 71 đã nhấn mạnh yêu cầu giảng viên phải đảm nhiệm đồng thời ba nhiệm vụ: đào tạo -nghiên cứu - kết nối quốc tế.
VÌ vậy, để tránh tình trạng dạy chay và nhàm chán, đội ngũ giảng viên cần gắn chặt việc giảng dạy với nghiên cứu khoa học. Theo đó, các giảng viên cần được bố trí giữ vai trò trưởng nhóm nghiên cứu để dẫn dắt định hướng khoa học của đơn vị. Mỗi giảng viên phải chủ trì một đề tài nghiên cứu gắn với doanh nghiệp hoặc các phòng thí nghiệm trọng điểm, nhằm bảo đảm tính ứng dụng và đóng góp thực tiễn.
Đồng thời, sinh viên trong chương trình phải được tham gia trực tiếp vào các dự án nghiên cứu, công bố quốc tế hoặc phát triển sản phẩm ứng dụng. Như vậy, giảng viên không chỉ “đến dạy”, mà còn góp phần hình thành và lan tỏa văn hóa nghiên cứu theo chuẩn quốc tế trong nhà trường.
Cần thiết lập mô hình giáo sư thỉnh giảng để thu hút giảng viên nước ngoài
Theo Tiến sĩ Nguyễn Sóng Hiền, Việt Nam cần có các chương trình đào tạo đại học, sau đại học xuất sắc trong nước thu hút, giữ chân các học sinh đạt giải vào học tập và nghiên cứu. Trong đó, các chương trình đào tạo nên có tỉ lệ 50% giáo sư nước ngoài, 50% giáo sư trong nước nhằm đào tạo được nhân tài, thu hút sinh viên quốc tế.
Tuy nhiên, để đạt mục tiêu đào tạo tài năng, thu hút học sinh, sinh viên xuất sắc học thì những giáo sư nước ngoài đó cần là những giáo sư đầu ngành, có công trình nghiên cứu khoa học ưu việt.
Đồng thời, để thu hút được họ, về mặt chính sách, trước hết, cần xây dựng chương trình giáo sư thỉnh giảng (visiting faculty) với các điều khoản rõ ràng về thời lượng làm việc, KPI và trách nhiệm chuyển giao năng lực. Đồng thời đi kèm với đó là gói đãi ngộ cạnh tranh gồm lương, nhà ở, quỹ nghiên cứu cùng các thủ tục ưu tiên về visa, thuế và hỗ trợ thân nhân. Việc kết hợp linh hoạt giữa giảng dạy trực tiếp và hình thức trực tuyến sẽ giúp thu hút và duy trì sự tham gia của chuyên gia quốc tế.
Bên cạnh đó, cần bảo đảm yếu tố chuyển giao tri thức một cách thực chất. Mọi hợp đồng hợp tác phải quy định rõ nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng giảng viên trong nước, đồng hướng dẫn nghiên cứu sinh cũng như tham gia xây dựng, chuẩn hóa giáo trình tiếng Việt. Song song đó, cần thiết lập các chương trình hướng dẫn và trao đổi học thuật nhằm tăng cường nội địa hoá tri thức và phát triển đội ngũ bền vững.
Những giải pháp này mang lại lợi ích thiết thực cho người học trong nước, được tiếp cận chuẩn mực quốc tế, nâng cao cơ hội thực tập và giao lưu học thuật, cải thiện chất lượng nghiên cứu, đồng thời mở rộng mạng lưới nghề nghiệp trong môi trường toàn cầu hoá.
Còn theo thầy Long, để thu hút giảng viên quốc tế, trước hết cần những chính sách đủ mạnh, đặc biệt là cơ chế lương cạnh tranh với các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Malaysia hay Indonesia, cùng các chế độ đãi ngộ tương xứng. Ngoài ra, phải xây dựng được môi trường học thuật đạt chuẩn quốc tế với phòng thí nghiệm hiện đại, ngân sách nghiên cứu minh bạch và quy trình tuyển dụng, đánh giá rõ ràng theo thông lệ quốc tế. Mạng lưới cựu sinh viên toàn cầu và đội ngũ nhà khoa học gốc Việt cũng đóng vai trò cầu nối quan trọng trong việc mời gọi, gắn kết nguồn trí thức Việt Nam ở nước ngoài.
Bên cạnh chính sách thu hút giảng viên nước ngoài, để học sinh sau khi đạt thành tích cao tại các kỳ thi quốc tế như Olympic quay trở về cống hiến cho đất nước, tạo thành “vòng tuần hoàn nhân tài” cần phát triển 4 khía cạnh.
Về học tập, cần xây dựng những chương trình đào tạo và nghiên cứu chất lượng cao ngay trong nước, nơi học sinh, sinh viên đạt thành tích cao có thể tiếp tục phát triển mà không cảm thấy bị giới hạn. Các em cần được tiếp cận phương pháp học hiện đại, tham gia đề tài thực tế, có cơ hội trao đổi quốc tế và được làm việc với đội ngũ giảng viên xuất sắc. Khi điều kiện học tập đủ hấp dẫn, việc ở lại hay quay trở về sẽ trở thành lựa chọn hợp lý và tự nhiên.
Về tài chính, nhóm nhân lực tài năng cần nhận được sự hỗ trợ phù hợp để yên tâm theo đuổi con đường học thuật và nghiên cứu. Điều này không chỉ nằm ở học bổng hay kinh phí nghiên cứu, mà còn là sự ghi nhận và khích lệ đối với những cá nhân có tiềm năng đóng góp cho đất nước. Một cơ chế tài chính minh bạch, ổn định sẽ giúp các em giảm bớt gánh nặng vật chất và tập trung tối đa cho công việc chuyên môn.
Về cơ hội thăng tiến, những người trẻ có thành tích cao thường có kỳ vọng rất lớn về việc được trao quyền, được đánh giá công bằng và được thử sức ở những vị trí có tầm ảnh hưởng. Vì vậy, cần xây dựng một lộ trình nghề nghiệp rõ ràng, dựa trên năng lực, cho phép các em phát triển nhanh chóng nếu chứng minh được khả năng của mình. Khi cơ hội thăng tiến rõ ràng và xứng đáng, các em sẽ có thêm lý do để lựa chọn gắn bó lâu dài.
Về môi trường làm việc, điều mà các nhân tài trẻ mong muốn nhất là sự cởi mở, chuyên nghiệp và tôn trọng sáng tạo. Một môi trường có văn hóa học thuật tích cực, cơ sở vật chất tốt và tinh thần hợp tác cao sẽ tạo điều kiện để các em phát huy tối đa năng lực. Nếu các em cảm nhận được rằng ở Việt Nam có nơi để mình làm việc hiệu quả, được lắng nghe và được trao cơ hội tạo ra giá trị, việc quay trở lại cống hiến sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.