Trao quyền bổ nhiệm GS,PGS cho trường đại học giúp tăng tính tự chủ, cạnh tranh

27/03/2025 08:44
Tường San
0:00 / 0:00
0:00

GDVN -Trường ĐH được bổ nhiệm PGS/GS tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, có thể tự do công nhận đóng góp thực tế của GV thay vì dựa vào một tiêu chuẩn chung.

Tháng 11/2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia đổi mới giáo dục và đào tạo, đã chủ trì phiên họp của Ủy ban về định hướng, giải pháp thực hiện đổi mới giáo dục và đào tạo theo Kết luận số 91-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Nổi bật trong đó, Thủ tướng đã giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì nghiên cứu, xây dựng đề án xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để thu hút, sử dụng chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài về giảng dạy, nghiên cứu và làm việc ở các cơ sở giáo dục Việt Nam.

Vừa qua, trong Nghị quyết 57-NQ/TW, tại nhiệm vụ 4 nhấn mạnh: “Ban hành cơ chế đặc thù thu hút người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài có trình độ cao về Việt Nam làm việc, sinh sống”.

Đáng nói, vấn đề thu hút giảng viên, chuyên gia, nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài về nghiên cứu, giảng dạy không hề đơn giản.

Vì sao nhiều chuyên gia Việt Nam lựa chọn công tác ở nước ngoài?

Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, thầy Đỗ Đình Thuấn - Giáo sư tại Đại học Mount Union, bang Ohio, Mỹ cho hay, việc có nhiều chuyên gia, nhà khoa học người Việt lựa chọn làm việc tại các quốc gia phát triển bởi nhiều nguyên nhân.

Trước hết là vấn đề lương bổng. Sau một thời gian được đào tạo bài bản ở nước ngoài, các giảng viên, nhà khoa học có học vị, học hàm đã quen với mức thu nhập của các quốc gia phát triển, đảm bảo cho cuộc sống và sự phát triển của chính bản thân và gia đình.

486463294_1378349213963060_2817414884792437793_n.jpg
Thầy Đỗ Đình Thuấn hiện đang là Giáo sư ngành Kỹ thuật máy tính và điện tử tại Đại học Mount Union, bang Ohio, Mỹ. Ảnh: NVCC.

Như tại Mỹ, thầy Thuấn thông tin, mức thu nhập của các trường đại học ở Mỹ không chỉ thỏa mãn cho nhu cầu cá nhân mà còn cho cả gia đình để phục vụ nhu cầu chi tiêu và phát triển. Các con của thầy cũng được học tại trường công lập miễn phí, nếu vào trường đại học mà thầy đang giảng dạy thì cũng được miễn toàn bộ học phí trong 4 năm đại học.

Bên cạnh đó, trong phát triển chuyên môn, họ có đồng nghiệp, sinh viên giỏi để cộng tác trong những dự án, đề tài nghiên cứu khoa học.

Hơn nữa, nghiên cứu khoa học tất yếu phải giải quyết bài toán thực tế của xã hội, tức xã hội đang cần gì thì họ phải nghiên cứu để giải quyết bài toán đó. Trên thực tế, phòng thí nghiệm của các trường đại học ở nước ngoài thường bám theo những gì doanh nghiệp đang cần. Vì vậy, mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp là khá chặt chẽ.

Đơn cử như ở Mỹ, doanh nghiệp thường đặt hàng để các phòng lab nghiên cứu trong trường đại học giải quyết bài toán cho họ. Bởi các giáo sư tại trường đại học sẽ tư vấn cho các doanh nghiệp không chỉ kiến thức mà còn cả thực tiễn (bởi họ cũng làm trong các công ty bên ngoài)

Trong khi đó, ở Việt Nam, còn nhiều doanh nghiệp chưa hiểu về cấu trúc trong trường đại học như thế nào; nhiều nghiên cứu của giảng viên cũng không phải là những đề tài sát với thực tế, chưa có tính thực tiễn cao.

Thầy Thuấn chia sẻ lý do lựa chọn trở thành Giáo sư ngành Kỹ thuật máy tính và điện tử tại Đại học Mount Union, bang Ohio, Mỹ vì đây là ngành đã có mặt ở Mỹ cách đây khoảng 50-60 năm, đã xây dựng nền tảng về chuyên ngành này rất nhiều. Do đó, khi lựa chọn giảng dạy và nghiên cứu về lĩnh vực này, các giảng viên sẽ có cơ hội để nghiên cứu và giảng dạy sâu hơn.

Từ thực tế của bản thân, thầy Thuấn cho rằng, để thu hút được đội ngũ giảng viên, chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài, cần phải có cơ chế lương, đãi ngộ tương xứng với tài năng, công sức mà họ đã đóng góp. Xây dựng môi trường với những phòng lab nghiên cứu lớn, giúp họ được thực hiện những đề tài, nghiên cứu lớn, liên kết, đáp ứng yêu cầu của những doanh nghiệp sản xuất lớn.

Đồng thời, tạo điều kiện cho họ cơ hội tham gia nhiều dự án, hợp tác sâu rộng với doanh nghiệp, như chỉ dành khoảng 20%-50% thời lượng cho giảng dạy và 50%-80% thời lượng để thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học. Việc làm này không chỉ giúp giảng viên được có cơ hội nghiên cứu mà còn đảm bảo tính mới về kiến thức mà họ cung cấp cho sinh viên, học viên. Bởi, các kiến thức lý thuyết phải được kiểm chứng bởi thực hành, thực tiễn.

Ngoài ra, cần cho các giảng viên được quyết định về giáo trình, kiến thức giảng dạy. Chất lượng giảng dạy của giảng viên sẽ được dựa trên những ý kiến của sinh viên, ý kiến của doanh nghiệp.

Đồng thời, cần tạo sự thông thoáng trong việc hợp tác với doanh nghiệp, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp; cho phép họ được điều chỉnh góp ý trong chương trình đào tạo để họ tích cực liên kết với nhà trường.

Cùng bàn về vấn đề trên, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Từ Quang Tân – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm (Đại học Thái Nguyên) cho hay, việc thu hút đội ngũ giảng viên, chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài về nước tham gia giảng dạy, nghiên cứu đang gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với các cơ sở giáo dục công lập bởi nhiều nguyên nhân.

z6440584884875_c9035b87b2c9aa05e970ad6644f6d8f9.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Từ Quang Tân – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm (Đại học Thái Nguyên). Ảnh: NVCC.

Thứ nhất là, chính sách đãi ngộ ở những cơ sở giáo dục công lập này còn hạn chế do thiếu nguồn lực. Mức lương, phụ cấp, điều kiện làm việc như phòng thí nghiệm, thực hành ở các cơ sở giáo dục công lập về cơ bản là thấp hơn so với mặt bằng quốc tế.

Thứ hai là, môi trường giáo dục, nghiên cứu còn phần nào nặng tính hành chính, thiếu sức hút đối với giảng viên, chuyên gia người Việt có trình độ cao ở nước ngoài.

Bên cạnh đó, khi quay trở về Việt Nam, cơ hội để họ phát triển nghề nghiệp và kết nối quốc tế cũng phần nào hạn chế hơn. Vậy nên, khi các nhà khoa học về nước công tác, nhiều cơ sở giáo dục đại học/ viện nghiên cứu phải gắn với công tác đào tạo, giảng dạy với nghiên cứu khoa học thật sâu rộng mới thu hút được giảng viên, chuyên gia người Việt ở nước ngoài về Việt Nam công tác.

Trước thực tế trên, theo thầy Tân, để thu hút được đội ngũ nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài, cần có chính sách, đãi ngộ mạnh mẽ và thiết thực hơn.

Theo đó, nên có nguồn lực ưu tiên của Chính phủ dành cho các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài muốn quay về Việt Nam để làm việc tại các cơ sở giáo dục đại học, cống hiến cho sự phát triển của Việt Nam. Cần có chính sách riêng cho các nhà khoa học này như hỗ trợ chi phí ban đầu để ổn định cuộc sống tại Việt Nam (nhà ở, phương tiện đi lại), hỗ trợ lương, hỗ trợ ngân sách nghiên cứu thông qua các đề tài khoa học, hỗ trợ việc tham gia các hội thảo quốc tế để duy trì và kết nối mạng lưới học thuật và các hỗ trợ khác dành cho gia đình để giảng viên, chuyên gia yên tâm sinh sống tại Việt Nam.

Ngoài ra, Đề án thu hút đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài cũng cần khuyến khích và tạo điều kiện để trường đại học được tự do học thuật, chuyển đổi số và quốc tế hóa mạnh mẽ hơn, góp phần biến các trường đại học trở thành những môi trường làm việc ít hành chính hóa, năng động, hiện đại hơn.

Trong khi đó, theo chia sẻ từ bà Nguyễn Thị Sao Ly – nhà khoa học nghiên cứu về dược tại công ty Intellia Therapeutics (Mỹ), vấn đề thu hút đội ngũ giảng viên, chuyên gia người Việt ở nước ngoài về Việt Nam không hề đơn giản.

Bởi, môi trường làm việc ở Việt Nam vẫn chưa thực sự hấp dẫn với nhiều người. Dù hiện tại đã có những cải cách nhưng mức lương và đãi ngộ tại các trường đại học hay cơ quan nghiên cứu vẫn còn thấp so với mức họ có thể nhận được ở các quốc gia phát triển. Hơn nữa, cơ sở hạ tầng và điều kiện nghiên cứu đôi khi chưa đáp ứng được kỳ vọng của họ.

Hơn nữa, không ít chuyên gia cảm thấy không có đủ không gian để phát huy tối đa khả năng của mình tại Việt Nam. Các quy định hành chính, thủ tục pháp lý cũng có thể gây cản trở sự tự do sáng tạo và nghiên cứu.

Cuối cùng, một yếu tố nữa gây ra hạn chế trên là sự khác biệt về văn hóa và môi trường làm việc. Trên thực tế, nhiều nhà khoa học đã quen với phong cách làm việc ở nước ngoài do đó khi về lại Việt Nam có thể khiến họ cảm thấy khó khăn trong việc thích nghi lại với một hệ thống và môi trường làm việc có những khác biệt lớn.

Chia sẻ về thực tế của bản thân, bà Sao Ly cho hay, việc bà lựa chọn công tác ở nước ngoài xuất phát từ nhiều lý do. Trước hết là về cơ hội nghề nghiệp. Ở nước ngoài, bà có thể tiếp cận với những cơ sở vật chất, công nghệ nghiên cứu hiện đại và đội ngũ chuyên gia hàng đầu. Môi trường ở đây cũng rất thoải mái trong việc chia sẻ kiến thức và hợp tác quốc tế, nên có thể học hỏi và phát triển nhanh chóng hơn. Và cơ hội thăng tiến cũng là một yếu tố quan trọng.

Các nhà khoa học cần cảm thấy rằng sự đóng góp của họ sẽ được ghi nhận và có cơ hội phát triển nghề nghiệp lâu dài, vì thế cần xây dựng một lộ trình thăng tiến rõ ràng trong các cơ sở nghiên cứu và trường đại học. Bên cạnh đó là sự tự do sáng tạo. Ở nước ngoài, nhà khoa học có thể tập trung vào nghiên cứu mà không bị quá nhiều ràng buộc về thủ tục hành chính hay các vấn đề quản lý. Điều này giúp bà làm việc hiệu quả hơn và theo đuổi những ý tưởng sáng tạo mà không bị "giới hạn".

Cuối cùng là đãi ngộ và mức sống. Lương bổng và phúc lợi ở đây ổn hơn nhiều so với ở Việt Nam, nên bà Ly cho rằng bản thân có thể ổn định cuộc sống cá nhân và dễ dàng tập trung vào công việc nghiên cứu.

Để thu hút các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài về nước, theo nhà khoa học Sao Ly, cần có một số chính sách và đãi ngộ cụ thể. Trước hết, phải có một mức đãi ngộ hợp lý. Bên cạnh đó, cần phải đầu tư vào cơ sở vật chất và môi trường làm việc.

Đồng thời, phải có hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu như có các quỹ nghiên cứu, các chương trình tài trợ để các nhà khoa học có thể thực hiện những dự án lớn mà không phải lo lắng về kinh phí. Điều này sẽ giúp họ không chỉ phát triển công trình nghiên cứu mà còn nâng cao giá trị công việc của mình.

Có nên giao quyền bổ nhiệm PGS/GS cho các trường đại học?

Mặt khác, theo thầy Thuấn, việc trao quyền tự bổ nhiệm chức danh phó giáo sư, giáo sư cho cơ sở giáo dục đại học cũng là một vấn đề cần lưu tâm để thu hút đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài.

Đơn cử như tại Mỹ, để bổ nhiệm phó giáo sư/giáo sư, cơ sở giáo dục đại học sẽ theo dõi quá trình chuyên môn của người đó trong 6 năm trước khi bổ nhiệm dựa trên 3 khía cạnh gồm giảng dạy, nghiên cứu và những gì họ đã phục vụ trong từng năm đó.

Mỗi trường lại có những có tiêu chuẩn cụ thể khác nhau như cần tham gia bao nhiêu hội đồng, bao nhiêu dự án khoa học, tạo ra được bao nhiêu học phần mới, đem về nguồn thu về nghiên cứu khoa học từ chính phủ, doanh nghiệp bao nhiêu, … Nếu cơ sở nào không có đủ đội ngũ chuyên môn để đánh giá về chuyên môn của người giảng viên đó thì họ sẽ gửi hồ sơ đến đồng nghiệp của trường bạn để thẩm định hồ sơ.

Tuy nhiên, lãnh đạo tại các trường đại học mà họ đang công tác vẫn luôn là người quyết định cuối cùng.

NCKHSV_DTH (1).jpg
Ảnh minh họa. Nguồn: Website Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên. Ảnh: Website Nhà trường.

Bên cạnh đó, trường đại học sẽ có nhiều chính sách đa dạng để thu hút và giữ các phó giáo sư, giáo sư nhằm cạnh tranh với các cơ sở giáo dục đại học khác.

Vậy nên, thầy Thuấn cho rằng, Việt Nam cũng nên cân nhắc đến việc giao quyền bổ nhiệm phó giáo sư, giáo sư cho các trường đại học để thu hút được đội ngũ chuyên gia, giảng viên, nhà khoa học giỏi. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong mỗi cơ sở giáo dục đại học.

Còn theo thầy Tân, quy trình công nhận và bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư được quy định bởi từng trường đại học và từng khoa cụ thể cũng là một vấn đề rất cần suy nghĩ và cân nhắc trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh tự chủ đại học và hội nhập quốc tế như hiện nay.

Ở nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Anh, Đức, Nhật...chức danh giáo sư, phó giáo sư được quyết định bởi từng trường đại học dựa trên nhu cầu tuyển dụng, uy tín học thuật và tiêu chí riêng. Điều này phản ánh mức độ tự chủ rất cao của các cơ sở giáo dục, đồng thời, tạo ra sự linh hoạt và đa đạng trong cách đánh giá, sử dụng nhân lực chất lượng cao.

Với các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài, nếu về nước mà không được giữ chức danh tương đương như vị trí họ hiện có ở nước ngoài thì chắc chắn họ sẽ phải cân nhắc cho dù họ mong muốn được cống hiến cho sự phát triển của đất nước.

Trước thực tế đó, theo thầy Tân, việc chuyển sang mô hình “trường tự bổ nhiệm” là có thể và nên từng bước thực hiện. Các trường có thể xây dựng bộ tiêu chí riêng trên cơ sở tham chiếu bộ tiêu chí khung của quốc gia.

Điều này sẽ giúp các trường tăng tính tự chủ học thuật, tạo sự cạnh tranh giữa các trường, thúc đẩy chất lượng và uy tín học thuật. Và mô hình này cũng giúp các trường thuận lợi hơn trong việc thu hút chuyên gia, giảng viên ở nước ngoài về Việt Nam công tác.

Cũng theo thầy Tân, hiện nay, các phó giáo sư/giáo sư được công nhận/phong tặng ở các trường đại học/cơ sở đào tạo nước ngoài vẫn được công nhận và trân trọng tại Việt Nam (kể cả hành chính, học thuật, chuyên môn). Ở Việt Nam, việc duy trì Hội đồng chức danh giáo sư ngành/chuyên ngành xem xét đánh giá tạo ra mặt bằng chung chức danh của ngành và hội đồng chức danh giáo sư nhà nước thẩm định, công nhận như hiện nay là cần thiết.

Tuy nhiên, khi sự liêm chính khoa học và khách quan công bằng, tương đồng giữa chất lượng giữa các cơ sở giáo dục đại học tốt hơn, lúc đó có thể phân quyền việc công nhận đạt chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư cho cho các cơ sở giáo dục đại học.

Còn theo nhà khoa học Sao Ly, việc giao quyền bổ nhiệm phó giáo sư/giáo sư cho các trường đại học ở Việt Nam cần được xem xét một cách cẩn thận.

Thực tế, việc công nhận và bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư ở các quốc gia phát triển thường linh hoạt hơn và chủ yếu do các trường đại học quyết định, chứ không bị ràng buộc bởi một hội đồng quốc gia. Điều này giúp tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, nơi các trường đại học có thể tự do công nhận những đóng góp thực tế của các giảng viên, thay vì chỉ dựa vào một tiêu chuẩn chung.

Ở Việt Nam, quy trình do Hội đồng Giáo sư Nhà nước quy định giúp đảm bảo tính minh bạch và công bằng, nhưng đồng thời cũng có thể khiến một số giảng viên cảm thấy hạn chế hoặc không linh hoạt như ở nước ngoài.

Để cạnh tranh với các quốc gia khác, theo bà Sao Ly, chúng ta có thể cân nhắc việc cải tiến quy trình bổ nhiệm sao cho vừa giữ được sự công bằng, vừa tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các giảng viên thực sự có năng lực, và khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới trong giảng dạy và nghiên cứu.

Tuy nhiên, điều quan trọng là vẫn phải được thực hiện một cách thận trọng, đảm bảo không làm mất đi chất lượng đào tạo và nghiên cứu mà chúng ta đang xây dựng.

Tường San