Trường ĐH chỉ ra những nút thắt cần tháo gỡ để thu hút chuyên gia nước ngoài quản lý, giảng dạy

05/10/2025 08:28
Mộc Trà
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN-Để thực thi chính sách hiệu quả, tạo “cú hích” lớn cho phát triển GDĐH, KHCN, trách nhiệm giải trình phải được chú trọng, cần cơ chế giám sát đa tầng.

Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa công bố dự thảo Tờ trình và dự thảo Nghị định Quy định người nước ngoài vào làm quản lý, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật tại các cơ sở giáo dục của Việt Nam để lấy ý kiến.

Những điểm mới trong dự thảo đang nhận được sự quan tâm của nhiều cơ sở giáo dục, đặc biệt là các cơ sở giáo dục đại học.

Cơ chế thúc đẩy quá trình quốc tế hóa giáo dục đại học

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Trung Tính - Hiệu trưởng Đại học Cần Thơ cho rằng: “Việc miễn giấy phép lao động cho chuyên gia thật sự không phải là một chính sách hoàn toàn mới, trước đây, tại Nghị định 11/2016/NĐ-CP và Nghị định 152/2020/NĐ-CP cũng đã có quy định về miễn giấy phép lao động cho chuyên gia nước ngoài.

Tuy nhiên, điều khác biệt trong dự thảo Nghị định mới này là các điều kiện và thẩm quyền xác định đối với “chuyên gia” đến làm công việc giảng dạy được quy định rõ ràng hơn. Qua đó, việc thực hiện sẽ có nhiều thuận lợi hơn và hy vọng các cơ sở giáo dục đại học như Đại học Cần Thơ sẽ thu hút được các chuyên gia, lao động người nước ngoài đến làm việc tại cơ sở đáp ứng đúng nhu cầu phát triển và nâng cao chất lượng của đơn vị.

Theo tôi, các yêu cầu trong quy định đã đủ để đảm bảo chất lượng đối với chuyên gia, hoàn toàn có thể đáp ứng tiêu chuẩn giảng viên, nghiên cứu viên của các cơ sở đào tạo, nghiên cứu. Dự thảo quy định đã căn cứ vào thực tiễn và phù hợp với các quy định khác của pháp luật hiện hành”.

483366103-658051106907718-2963764453425701050-n.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Trung Tính - Hiệu trưởng Đại học Cần Thơ. Ảnh: website trường.

Chia sẻ về nội dung này, Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Đắc Lộc - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh cũng bày tỏ: “Tới đây, việc miễn giấy phép lao động cho chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài với những tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng, sẽ là một bước tiến đột phá. Chính sách này sẽ mang lại 3 thuận lợi chiến lược sau:

Một là, giảm “rào cản” hành chính, tăng tính cạnh tranh: Thủ tục xin cấp giấy phép lao động hiện nay còn khá phức tạp và tốn thời gian, đây là một trong những rào cản ban đầu khiến nhiều chuyên gia e ngại. Việc miễn giấy phép sẽ giúp quy trình mời chuyên gia trở nên nhanh chóng, linh hoạt hơn rất nhiều, giúp các cơ sở giáo dục Việt Nam cạnh tranh sòng phẳng hơn với các quốc gia khác trong khu vực trong cuộc đua thu hút nhân tài toàn cầu.

Hai là, tăng cường sự linh hoạt trong hợp tác ngắn hạn: Chính sách này đặc biệt hữu ích cho việc mời các giáo sư, nhà khoa học hàng đầu thế giới đến giảng dạy, nói chuyện chuyên đề, hoặc hợp tác nghiên cứu trong thời gian ngắn (vài tuần đến vài tháng). Đối với các hoạt động này, việc yêu cầu một giấy phép lao động đầy đủ là không thực tế và làm lỡ nhiều cơ hội hợp tác quý giá.

Ba là, thúc đẩy quá trình quốc tế hóa giáo dục đại học: Khi thủ tục được đơn giản hóa, các trường sẽ chủ động và mạnh dạn hơn trong việc mời chuyên gia quốc tế, từ đó đẩy nhanh tốc độ quốc tế hóa chương trình giảng dạy, nghiên cứu khoa học và nâng cao vị thế của giáo dục đại học Việt Nam”.

Giáo sư Hồ Đắc Lộc đánh giá, đây là một sự chuyển dịch trách nhiệm hợp lý: “Thay vì dựa vào một thủ tục hành chính (giấy phép lao động), chất lượng chuyên gia giờ đây sẽ được đảm bảo bởi uy tín và quy trình thẩm định nội bộ của chính các cơ sở giáo dục. Dự thảo đã trao quyền tự chủ nhưng cũng đi kèm với trách nhiệm giải trình rất lớn cho các trường.

Chúng ta cần làm tốt hai việc. Đầu tiên, quy định rõ tiêu chuẩn “chuyên gia”: Nghị định cần định nghĩa rõ các tiêu chí về bằng cấp, kinh nghiệm, thành tích khoa học/công nghệ để các trường có cơ sở áp dụng. Thứ hai, tăng cường hậu kiểm: Các cơ quan quản lý nhà nước cần có cơ chế giám sát, kiểm tra sau khi các trường mời chuyên gia, đảm bảo việc miễn giấy phép được thực hiện đúng mục đích, đúng đối tượng”.

Giáo sư Hồ Đắc Lộc cũng chia sẻ thêm: “Điều 7 của dự thảo nêu rõ các yêu cầu về trình độ chuyên môn đối với người nước ngoài giảng dạy, nghiên cứu khoa học, trao đổi học thuật tại các cơ sở giáo dục. Việc đặt ra các yêu cầu rõ ràng về trình độ và kinh nghiệm như vậy là vô cùng cần thiết để đảm bảo chất lượng đầu vào, tránh việc chính sách bị lạm dụng.

Đặc biệt, việc ưu tiên những người có chức danh giáo sư, phó giáo sư, viện sĩ là một định hướng chiến lược rất đúng đắn. Điều này không chỉ giúp thu hút các cá nhân xuất sắc, mà còn mang lại hiệu ứng lan tỏa lớn.

Trước hết, thu hút nhân tài đỉnh cao: Các giáo sư, viện sĩ hàng đầu thế giới thường có yêu cầu rất cao về môi trường làm việc và sự tôn trọng học thuật. Một chính sách ưu tiên, linh hoạt là tín hiệu cho thấy Việt Nam thực sự trân trọng và sẵn sàng trải thảm đỏ đón họ.

Đồng thời, nâng tầm thương hiệu học thuật: Sự hiện diện của các học giả danh tiếng sẽ giúp nâng cao uy tín và thứ hạng của các trường đại học Việt Nam trên bản đồ học thuật thế giới.

Mặt khác, xây dựng các nhóm nghiên cứu mạnh: Các giáo sư đầu ngành không chỉ mang đến kiến thức, mà còn mang theo cả mạng lưới quan hệ quốc tế, kinh nghiệm xây dựng và dẫn dắt các nhóm nghiên cứu mạnh; từ đó, giúp đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ các nhà khoa học kế cận của Việt Nam”.

Một số “rào cản” cần được tháo gỡ khác

Bên cạnh vấn đề về thủ tục hành chính, Giáo sư Hồ Đắc Lộc cũng chỉ ra, thực tiễn cho thấy hiện vẫn còn một số “rào cản” cần được xem xét tháo gỡ.

Chẳng hạn, chế độ đãi ngộ và môi trường làm việc: Mức lương và các phúc lợi dành cho chuyên gia nước ngoài tại Việt Nam nhìn chung chưa đủ sức cạnh tranh so với các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Malaysia. Hơn nữa, môi trường nghiên cứu, cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn kinh phí cho nghiên cứu khoa học còn hạn chế.

Cơ chế tài chính và tự chủ đại học: Nhiều trường còn bị ràng buộc bởi các quy định tài chính công, khó có thể xây dựng một gói đãi ngộ đặc biệt đủ hấp dẫn để thu hút các chuyên gia hàng đầu.

Môi trường sống và hòa nhập: Các vấn đề về ngôn ngữ, dịch vụ hỗ trợ cho gia đình (trường học cho con cái, y tế…), và sự khác biệt văn hóa cũng là những yếu tố mà các chuyên gia dài hạn cân nhắc.

z7079863303307-b20ec962cd2a2b6734923e9ab445047f.jpg
Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Đắc Lộc - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website trường.

Để tháo gỡ những rào cản này, theo Giáo sư Hồ Đắc Lộc, cần các giải pháp đồng bộ như sau:

Về chính sách: Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi đặc thù về thuế thu nhập cá nhân, cho phép các trường đại học, đặc biệt là các trường tự chủ, được xây dựng quỹ lương đặc biệt dành cho nhân tài quốc tế.

Về đầu tư: Tăng cường đầu tư có trọng điểm để xây dựng một vài trung tâm nghiên cứu xuất sắc (center of excellence) đạt chuẩn quốc tế, tạo ra môi trường làm việc đủ sức hấp dẫn.

Về hỗ trợ: Các trường đại học cần thành lập các văn phòng hỗ trợ chuyên nghiệp (International Office) để giúp đỡ các chuyên gia và gia đình họ trong quá trình làm việc và sinh sống tại Việt Nam.

Về vấn đề này, Phó Giáo sư Trần Trung Tính cho rằng: “Dự thảo Nghị định này và các văn bản có liên quan vẫn còn quy định việc “chỉ tiếp nhận người nước ngoài đối với vị trí công việc, chuyên môn mà lao động trong nước chưa đáp ứng hoặc cần bổ sung để nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu”.

Đây không hẳn là một “rào cản”, tuy nhiên, các cơ sở giáo dục sẽ gặp khó trong việc xác định và chứng minh điều kiện này. Chẳng hạn, nếu Đại học Cần Thơ có nhu cầu tuyển giảng viên trình độ tiến sĩ để giảng dạy các ngành tiếng Hàn, tiếng Nhật, việc chứng minh là lao động trong nước không đáp ứng được là khó khăn. Mặc dù trong một thời gian dài, Đại học Cần Thơ không tuyển dụng được vị trí này.

Để tháo gỡ khó khăn trên, đề xuất quy định một tỉ lệ nhất định đối với sử dụng người nước ngoài trong đội ngũ giảng dạy, nhằm hạn chế việc tuyển dụng tràn lan người nước ngoài, nhưng vẫn đảm bảo được mục tiêu hướng tới đạt các chuẩn mực hội nhập và gia tăng vị trí trong các bảng xếp hạng quốc tế”.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Như Khoa - Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp (Đại học Thái Nguyên), dự thảo Nghị định đã khắc phục được các hạn chế hiện nay, đặc biệt là đã giảm bớt các giấy tờ, thủ tục hành chính, đã xây dựng hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ và minh bạch tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở giáo dục Việt Nam thu hút đội ngũ trí thức, nhà quản lý, giảng viên, nhà khoa học quốc tế có trình độ cao. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu, chuyển giao tri thức và công nghệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng.

Tuy nhiên, Phó Giáo sư Ngô Như Khoa cũng cho rằng: “Đối với khoản 4 Điều 10: Nên mở rộng việc cấp giấy xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động cho tất cả các cơ sở giáo dục đại học trong cả nước thay vì chỉ cho phép Hiệu trưởng, Giám đốc một số cơ sở giáo dục đại học trọng điểm.

Điều này đảm bảo tính bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn nhân lực chất lượng cao từ nước ngoài, cũng như phù hợp với xu thế tăng quyền tự chủ và nâng cao trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học.

Ngoài ra, Nghị định cần xem xét bổ sung: (1) Bổ sung trường hợp cho người nước ngoài vào giảng dạy ngoại ngữ (tiếng Anh, Trung, Hàn, Nhật); (2) Bổ sung nội dung, quy định liên quan đến chế độ bảo hiểm”.

Quyền hạn đi đôi với trách nhiệm

Theo Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Điều 9. Quyền hạn, trách nhiệm của cơ sở giáo dục của Việt Nam là điều khoản then chốt, thể hiện đúng tinh thần của tự chủ đại học: Quyền hạn đi đôi với trách nhiệm. Việc trao quyền cho các cơ sở giáo dục tự quyết định mời chuyên gia là một bước đi đúng đắn, giúp các trường trở nên năng động và chủ động hơn. Tuy nhiên, trách nhiệm giải trình phải được đặt lên hàng đầu.

Theo đó, để đảm bảo các quy định được thực thi nghiêm túc, cần một cơ chế giám sát đa tầng:

Giám sát nội bộ: Bản thân mỗi cơ sở giáo dục phải xây dựng một quy trình thẩm định nội bộ chặt chẽ, công khai và minh bạch (ví dụ: thông qua Hội đồng Khoa học và Đào tạo) trước khi quyết định mời một chuyên gia.

Giám sát từ cơ quan quản lý: Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thực hiện cơ chế hậu kiểm. Các trường phải có trách nhiệm báo cáo định kỳ danh sách và hoạt động của các chuyên gia được mời theo diện miễn giấy phép lao động. Bộ có thể tiến hành kiểm tra đột xuất hoặc định kỳ để đánh giá việc tuân thủ.

Giám sát chéo và cộng đồng: Cần có sự minh bạch thông tin. Việc công khai danh sách chuyên gia đang làm việc tại các trường sẽ giúp cộng đồng học thuật và xã hội cùng tham gia giám sát, đảm bảo chất lượng và uy tín chung.

z7079863296468-cdd7a3a9d20b17ace5b9cc65071292e4.jpg
Chuyên gia nước ngoài chia sẻ trong một talkshow được tổ chức tại Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website trường.

Theo Phó Giáo sư Trần Trung Tính, quyền hạn và trách nhiệm của cơ sở giáo dục đã được quy định rõ trong dự thảo, làm căn cứ cho các cơ sở giáo dục thực hiện, cũng là một điều kiện để cơ sở giáo dục tăng cường tính tự chủ trong việc xây dựng chiến lược, xác định nhu cầu, tuyển dụng và sử dụng người lao động có trình độ cao, đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục.

Để thực thi quyền hạn và trách nhiệm theo quy định, cơ sở giáo dục cần xác định đúng nhu cầu và chất lượng của người lao động nước ngoài, như việc đảm bảo tính chính xác và hợp pháp của các thông tin do người lao động nước ngoài tự kê khai. Mặt khác, cơ sở giáo dục cần hoàn thiện hệ thống văn bản quy định, quy trình đảm bảo chất lượng, quy trình công tác nội bộ để chủ động trong việc quản lý, giám sát người lao động nước ngoài.

Để đảm bảo việc thực thi quyền hạn, trách nhiệm của cơ sở giáo dục một cách hiệu quả và đúng quy định của pháp luật, các cơ quan có thẩm quyền cần thực hiện tốt chức năng quản lý, có chế độ kiểm tra việc thực hiện của cơ sở giáo dục và chế tài phù hợp đối với các trường hợp vi phạm quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, trình tự, thủ tục sử dụng và quản lý người lao động nước ngoài”.

Phó Giáo sư Trần Trung Tính cũng chỉ ra, việc thu hút, tuyển dụng chuyên gia, người lao động trình độ cao tham gia giảng dạy, nghiên cứu và trao đổi học thuật tại cơ sở giáo dục tạo điều kiện rất tốt cho việc nâng cao chất lượng giáo dục và tăng tính quốc tế hóa cho giáo dục trong nước. Tuy nhiên, đối với các quy định hiện hành, giảng viên chủ trì ngành đào tạo tại cơ sở giáo dục đại học công lập phải là được tuyển dụng theo quy định của Luật viên chức, điều này gây khó khăn cho việc tận dụng uy tín và năng lực của chuyên gia nước ngoài trong việc tuyển sinh, mở ngành đào tạo của cơ sở giáo dục đại học.

Ngoài ra, Giáo sư Hồ Đắc Lộc cũng góp ý thêm: “Cần linh hoạt hóa định nghĩa “chuyên gia”: Ngoài các chức danh học thuật truyền thống, Nghị định nên có điều khoản mở cho các “chuyên gia thực chiến” từ các tập đoàn công nghệ, các doanh nghiệp lớn. Họ có thể không có bằng cấp cao, nhưng lại sở hữu kiến thức, kỹ năng thực tiễn vô giá mà sinh viên rất cần.

Phân loại thủ tục theo thời gian làm việc: Nên có sự phân biệt rõ ràng hơn trong thủ tục giữa chuyên gia làm việc rất ngắn hạn (dưới 30 ngày) và chuyên gia làm việc dài hạn (từ 3 tháng đến 1 năm). Thủ tục cho các trường hợp ngắn hạn có thể được đơn giản hóa tối đa.

Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia: Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể xây dựng một cơ sở dữ liệu chung về các chuyên gia nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam. Điều này không chỉ giúp công tác quản lý tốt hơn mà còn tạo điều kiện để các trường chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và cùng nhau hợp tác”.

Giáo sư Hồ Đắc Lộc nhấn mạnh, đây là một dự thảo có tầm nhìn, thể hiện tư duy đổi mới và quyết tâm hội nhập của ngành giáo dục. Nếu được triển khai tốt cùng các giải pháp đồng bộ, tôi tin rằng chính sách này sẽ tạo ra một “cú hích” lớn cho sự phát triển của giáo dục đại học và khoa học công nghệ tại Việt Nam.

Mộc Trà