Cần bổ sung khoảng 22.000 giáo viên để đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai

23/09/2025 09:21
Minh Ngọc
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Việc đổi mới chương trình đào tạo, chính sách đãi ngộ thỏa đáng với GV vừa giảng dạy vừa sử dụng tiếng Anh để dạy các môn khoa học là cấp thiết.

Ngày 22/9, tại Hà Nội, Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực tổ chức phiên họp xin ý kiến góp ý dự thảo Đề án “Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2045” (sau đây gọi là Đề án). Thứ trưởng Thường trực Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Ngọc Thưởng, Trưởng Tiểu ban Giáo dục phổ thông chủ trì phiên họp.

Toàn cảnh phiên họp.
Toàn cảnh phiên họp.

Lộ trình 20 năm đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học

Báo cáo tại phiên họp, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Phổ thông Thái Văn Tài đã chia sẻ tóm tắt những nội dung chính của dự thảo Đề án và những vấn đề cần tiếp tục xin ý kiến tham vấn Hội đồng.

Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, việc xây dựng Đề án nhằm cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Chính phủ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Đề án đặt mục tiêu đến năm 2045, tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục, được sử dụng rộng rãi trong dạy học, quản lí và các hoạt động giáo dục. Lộ trình triển khai chia thành ba giai đoạn (2025-2030, 2030-2040, 2040-2045) với bộ tiêu chí đánh giá gồm 7 tiêu chuẩn cho từng cấp học.

Các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm gồm: nâng cao nhận thức xã hội; hoàn thiện cơ chế, chính sách; phát triển đội ngũ giáo viên; xây dựng chương trình, học liệu; đổi mới thi, kiểm tra, đánh giá; ứng dụng công nghệ và trí tuệ nhân tạo; tăng cường hợp tác quốc tế và xã hội hóa; đẩy mạnh thi đua, khen thưởng.

Vụ trưởng Vụ Giáo dục Phổ thông Thái Văn Tài báo cáo tóm tắt về dự thảo Đề án tại phiên họp.
Vụ trưởng Vụ Giáo dục Phổ thông Thái Văn Tài báo cáo tóm tắt về dự thảo Đề án tại phiên họp.

Đề án được dự kiến triển khai trong toàn hệ thống giáo dục với gần 50.000 cơ sở, khoảng 30 triệu học sinh, sinh viên và 1 triệu cán bộ, giáo viên. Trong đó, cần bổ sung khoảng 12.000 giáo viên tiếng Anh mầm non, gần 10.000 giáo viên tiểu học, đồng thời bồi dưỡng ít nhất 200.000 giáo viên có khả năng giảng dạy bằng tiếng Anh đến năm 2030.

Nguồn lực thực hiện gồm ngân sách nhà nước và sự tham gia, đóng góp của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Bộ Giáo dục và Đào tạo khẳng định thành công của Đề án đòi hỏi sự đồng thuận xã hội, kiên trì thực hiện trong suốt 20 năm, nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Tại cuộc họp, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xin ý kiến Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực về lộ trình triển khai, phạm vi thực hiện và giải pháp huy động nguồn lực để hoàn thiện Đề án, trình Chính phủ trong thời gian tới.

Những băn khoăn khi triển khai ở địa phương

Từ góc độ đơn vị đào tạo giáo viên, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quý Thanh, Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng: Việc đào tạo tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai phải gắn với rèn luyện tư duy, khả năng tiếp nhận và phản ánh văn hóa, đồng thời kết hợp với tư duy duy lí để tạo chuyển biến thực chất. Bên cạnh đó, giai đoạn 4-7 tuổi là “thời kỳ vàng” để học ngôn ngữ, nhưng nếu cho trẻ học tiếng Anh quá sớm có thể ảnh hưởng đến khả năng thành thạo tiếng mẹ đẻ và việc tiếp nhận văn hóa Việt.

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quý Thanh, Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) phát biểu ý kiến.
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Quý Thanh, Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) phát biểu ý kiến.

Bà Trần Thị Huyền, Quyền Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Cần Thơ, cho biết các trường rất phấn khởi khi Kết luận số 91-KL/TW và Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị đều xác định đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai. Tuy nhiên, việc triển khai còn nhiều băn khoăn về năng lực giáo viên và điều kiện hạ tầng. Với thực tế số lượng lớn học sinh là con em đồng bào dân tộc, nhiều em chưa thành thạo tiếng Việt, cần có lộ trình phù hợp cho từng địa phương để bảo đảm thực hiện đồng bộ, hiệu quả.

Ông Lâm Thế Hùng, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Tuyên Quang cũng nhận định việc thực hiện Đề án tại địa phương có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số là nhiệm vụ nặng nề. Dù đã được tập trung đầu tư nguồn lực, việc dạy tiếng Việt trước khi vào lớp 1 cho trẻ đồng bào dân tộc thiểu số vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn, học sinh nghe hiểu được nhưng khả năng diễn đạt còn hạn chế. Trong bối cảnh đó, triển khai tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai càng khó khăn hơn. Do đó, cần có mục tiêu, lộ trình và yêu cầu kết quả phù hợp với điều kiện từng vùng miền.

Đánh giá dự thảo Đề án được chuẩn bị kỹ lưỡng và chu đáo, Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn, Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, cho rằng lộ trình triển khai nhìn chung phù hợp, đã tính toán đến đặc thù vùng miền và nhiều kịch bản. Tuy nhiên, cần tuân thủ nguyên tắc phân kì, tránh dàn trải và có định hướng cụ thể.

Đoàn chủ trì điều hành phiên họp.
Đoàn chủ trì điều hành phiên họp.

Về bậc mầm non, Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn nhận định triển khai trên bình diện quốc gia là khả thi nhưng cần cân nhắc việc bắt buộc, đồng thời phải dự liệu tác động ngược liên quan đến văn hóa và ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ.

Về đào tạo, bồi dưỡng, cần khảo sát lại lực lượng giáo viên ngoại ngữ; trong điều kiện hiện nay, nguồn nhân lực và công nghệ hoàn toàn có thể đáp ứng nếu được tổ chức và khai thác hợp lí.

Cần đột phá về tư duy, thể chế và nguồn lực

Phát biểu tại phiên họp, Thứ trưởng Thường trực Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Ngọc Thưởng ghi nhận 15 ý kiến đóng góp tâm huyết, sâu sắc của các đại biểu và khẳng định Bộ sẽ tiếp thu tối đa để hoàn thiện Đề án.

Thứ trưởng Thường trực Phạm Ngọc Thưởng phát biểu tại phiên họp.
Thứ trưởng Thường trực Phạm Ngọc Thưởng phát biểu tại phiên họp.

Thứ trưởng nhấn mạnh, lộ trình triển khai đến năm 2045 cần được thực hiện linh hoạt: những địa phương có điều kiện thuận lợi có thể đi trước, tạo vai trò dẫn dắt; trong khi đó, các vùng khó khăn sẽ thực hiện theo tiến độ phù hợp. Việc đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai phải gắn với quan điểm đột phá theo tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị, đó là đột phá trong tư duy, nhận thức, thể chế và nguồn lực.

Về nguồn lực, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, lấy đầu tư công làm động lực, đồng thời khuyến khích huy động xã hội hóa nhưng không thể chỉ trông chờ vào xã hội hóa. Thứ trưởng cũng lưu ý việc phân chia cấp độ phổ cập phù hợp với từng vùng miền, bắt đầu từ làm quen ở bậc mầm non, tiến tới phổ cập rộng hơn ở tiểu học và các cấp học tiếp theo.

Các đại biểu tham dự phiên họp.
Các đại biểu tham dự phiên họp.

Trong tám giải pháp lớn của Đề án, Thứ trưởng đặc biệt nhấn mạnh hai yếu tố then chốt: thể chế và đào tạo đội ngũ giáo viên. Việc đổi mới chương trình đào tạo giáo viên, chính sách đãi ngộ thỏa đáng, nhất là với những thầy cô vừa giảng dạy tiếng Anh, vừa sử dụng tiếng Anh để dạy các môn khoa học, là yêu cầu cấp thiết.

Thứ trưởng cũng đề cao vai trò của ứng dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo trong dạy – học ngoại ngữ; phát động phong trào thi đua học tập tiếng Anh; học hỏi, nhân rộng các mô hình thành công ở địa phương và cơ sở giáo dục.

“Chúng ta mong muốn Đề án sớm được phê duyệt với tính khả thi cao và cách tổ chức quản lí hiệu quả, đặc biệt ở cấp địa phương, để từng cơ sở giáo dục đạt kết quả như mục tiêu đề ra”, Thứ trưởng Thường trực bày tỏ.

Minh Ngọc