Chuyên gia ngành Tâm lý học góp ý điều chỉnh một số quy định khi xét PGS, GS

28/03/2025 06:23
Trần Trang
0:00 / 0:00
0:00

GDVN -Với ngành Tâm lý học tại Việt Nam, các sản phẩm nghiên cứu khoa học - điều kiện cần để xét đạt chuẩn chức danh GS, PGS còn hạn chế.

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Công văn 687/BGDĐT-NGCBQLGD, gửi đến các cơ sở giáo dục đại học; các viện hàn lâm và viện nghiên cứu được phép đào tạo trình độ tiến sĩ, yêu cầu báo cáo tình hình triển khai thực hiện Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư; thủ tục xét hủy bỏ công nhận chức danh và miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư.

Trước thông tin này, một số chuyên gia trong ngành Tâm lý học và lãnh đạo trường đại học đã bày tỏ một số góp ý.

Ngành Tâm lý học đang thiếu sản phẩm nghiên cứu khoa học

Theo tìm hiểu của phóng viên, sau 6 năm kể từ khi Quyết định số 37 có hiệu lực, ngành Tâm lý học có thêm 4 giáo sư và 23 phó giáo sư. Giai đoạn đầu, số lượng ứng viên đạt chuẩn giáo sư, phó giáo sư khá hạn chế, thậm chí năm 2022, ngành không có ứng viên nào đủ tiêu chuẩn. Đến giai đoạn 2023-2024, số lượng phó giáo sư của ngành đã tăng lên đáng kể nhưng số lượng giáo sư vẫn ít.

Untitled design (2).png
Thống kê số lượng giáo sư, phó giáo sư ngành Tâm lý học từ 2019-2024. Số liệu được PV tổng hợp từ http://hdgsnn.gov.vn/.

Về vấn đề này, Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Hoàng Minh - Chủ nhiệm Khoa Các khoa học Giáo dục kiêm Viện trưởng Viện Nghiên cứu lâm sàng về Xã hội, Tâm lý và Giáo dục của Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội chia sẻ: “Nhìn chung lĩnh vực khoa học xã hội trong đó có khoa học tâm lý chưa nhận được nhiều sự ưu tiên trong đầu tư khoa học ở nước ta. Do đó, số lượng các đề tài, các nghiên cứu chưa nhiều, kinh phí thấp, dẫn đến số lượng các các sản phẩm nghiên cứu (như sách tham khảo, sách chuyên ngành, bài báo khoa học…) - điều kiện cần để xét đạt chuẩn chức danh, sẽ ít hơn so với khoa học tự nhiên và công nghệ.

Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo có ngành Tâm lý học trên cả nước cũng không nhiều so với các ngành “hot” hoặc phạm vi rộng khác của khoa học xã hội như truyền thông, luật, kinh tế, sư phạm-giáo dục…”.

gs-dang-hoang-minh-57-9940.jpg
Giáo sư Đặng Hoàng Minh, đại diện các nhà giáo phát biểu tại Lễ công bố và trao quyết định bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư tại Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: Website nhà trường.

Mặc dù có khó khăn, theo nhận xét của Giáo sư Đặng Hoàng Minh, trong những năm qua, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực Tâm lý đã có rất nhiều nỗ lực để có những ấn phẩm quốc tế, và có thể nói số lượng các bài báo quốc tế trong ngành Tâm lý học hiện nay chiếm tỉ trọng lớn trong các ngành khoa học xã hội. Tỷ lệ các nhà khoa học đạt chuẩn giáo sư, phó giáo sư, hàng năm không hề thấp, nếu tính trên tổng số lượng giảng viên, nghiên cứu viên ngành Tâm lý học ở các cơ sở giáo dục đại học và nghiên cứu trên cả nước.

Trong khi đó, Phó giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thị Thu Hoa - giảng viên cao cấp Khoa Tâm lý học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội nhận định: "Khó khăn đầu tiên phải kể đến đó là tiêu chuẩn về bài báo quốc tế. Để đạt chuẩn, ứng viên phải là tác giả chính của một số lượng bài báo nhất định được công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín như ISI, Scopus. Nhưng để bài báo quốc tế đạt chất lượng về học thuật không dễ dàng nhất là đối với ngành khoa học xã hội".

Cô Hoa cũng chỉ ra, trong nghiên cứu Tâm lý học, do tính ứng dụng cao của lĩnh vực này, việc thu thập dữ liệu là vô cùng quan trọng, đòi hỏi các nhà khoa học phải có những đề tài nghiên cứu cụ thể để thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế, việc tìm kiếm các đề tài nghiên cứu phù hợp không hề đơn giản.

Bên cạnh thách thức trong việc tìm kiếm đề tài, các nhà nghiên cứu tâm lý học cũng phải đối mặt với nhiều trở ngại trong quá trình thu thập dữ liệu. Trước hết, việc tiếp cận đối tượng nghiên cứu thường gặp khó khăn do đặc thù văn hóa và xã hội của Việt Nam.

Tâm lý người Việt Nam có xu hướng dè dặt, ngại chia sẻ về những vấn đề cá nhân, đặc biệt là những chủ đề nhạy cảm liên quan đến tâm lý, cảm xúc hay đời sống tinh thần. Điều này khiến các nhà nghiên cứu mất nhiều thời gian để xây dựng lòng tin với người tham gia, thậm chí trong nhiều trường hợp, họ không thể tiếp cận được nhóm đối tượng cần nghiên cứu.

Một thách thức lớn khác là vấn đề bảo mật thông tin trong các nghiên cứu tâm lý học, đặc biệt là với những chủ đề nhạy cảm như sức khỏe tâm thần, sang chấn tâm lý hay các rối loạn hành vi. Người tham gia nghiên cứu thường lo ngại rằng thông tin cá nhân của họ có thể bị tiết lộ hoặc sử dụng sai mục đích, từ đó làm giảm mức độ hợp tác.

Ngoài ra, sự thiếu tin tưởng của người dân đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học cũng là một trở ngại đáng kể. Ở Việt Nam, nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong lĩnh vực tâm lý học, chưa thực sự phổ biến và được công nhận rộng rãi trong đời sống hằng ngày. Nhiều người vẫn còn hoài nghi về mục đích của các nghiên cứu, hoặc cảm thấy việc tham gia nghiên cứu không mang lại lợi ích thiết thực cho bản thân. Điều này khiến các nhà nghiên cứu gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển chọn người tham gia và thu thập dữ liệu đầy đủ.

Không chỉ vậy, việc lựa chọn mẫu đại diện cho dân số mục tiêu cũng là một thách thức lớn. Việt Nam có đặc điểm địa lý và nhân khẩu học đa dạng, từ khu vực thành thị đến nông thôn, miền núi, đồng bằng và hải đảo, với sự khác biệt đáng kể về văn hóa, lối sống và điều kiện kinh tế - xã hội. Điều này khiến việc chọn mẫu nghiên cứu trở nên phức tạp, đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải có phương pháp tiếp cận phù hợp để đảm bảo tính đại diện của dữ liệu.

Mặc dù có nhiều khó khăn, cô Hoa cho rằng, đây không phải là những rào cản không thể vượt qua, mà chỉ đòi hỏi các nhà nghiên cứu cần có những phương pháp phù hợp để khắc phục.

475884999_10227013639558857_7784405767078002766_n.jpg
Phó giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thị Thu Hoa - giảng viên cao cấp Khoa Tâm lý học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: NVCC.

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh là cơ sở đào tạo, nghiên cứu lĩnh vực khoa học xã hội lớn của cả nước, trong đó có ngành Tâm lý học. Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Thị Phương Lan – Hiệu trưởng nhà trường cho hay, từ thời điểm Quyết định số 37 được ban hành đến nay, trường đã bổ nhiệm mới 10 phó giáo sư và 01 giáo sư (trong đó có 1 phó giáo sư ngành Tâm lý học vào năm 2023).

Theo cô Lan, hiện tại, trường có 03 giáo sư và 37 phó giáo sư. Về mặt tổng thể, số lượng hiện tại đáp ứng được quy mô đào tạo, tuy nhiên, nếu xét riêng từng ngành thì có ngành thiếu nhân sự. Trường đang thực hiện các công tác liên quan đến tái cơ cấu bộ máy nhân sự để phù hợp giữa đội ngũ và quy mô đào tạo.

Cô Lan nhìn nhận, tiêu chí về bài báo khoa học không dễ dàng đối với khối ngành khoa học xã hội và nhân văn. Tuy nhiên, Việt Nam đang trong bối cảnh hội nhập quốc tế và để có nền giáo dục tiên tiến thì chất lượng đội ngũ giáo sư, phó giáo sư cũng phải được nâng cao.

“Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, số lượng ứng viên đã tăng lên, và các trường đại học đã định hướng rõ ràng hơn về việc công bố quốc tế. Nhờ đó, số lượng công bố khoa học của các trường và cả nước đều gia tăng. Hoạt động này phần nào nâng cao mức độ hội nhập của đội ngũ nhà khoa học, dù vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và tranh cãi” – cô Lan bày tỏ.

f9ead08e-aa90-4169-8517-03b61783e2cd-1156.jpg
Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Thị Phương Lan – Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NTCC.

Đề xuất điều chỉnh nhiều quy định trong Quyết định số 37

Trước thông tin Quyết định số 37 đang được ghi nhận ý kiến để chỉnh sửa hoặc thay thế, Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Hoàng Minh bày tỏ: “Quyết định số 37 khi ra đời năm 2018 đã có rất nhiều cải tiến, đổi mới, giúp quá trình xét chuẩn chức danh được minh bạch hơn từ đó đến nay. Tuy nhiên, cũng vì quy định quá chi tiết, và có phần cứng nhắc, nên việc chấm điểm, đánh giá hồ sơ của ứng viên mang tính số học và cơ học, hơn là đánh giá đúng chất lượng của các sản phẩm.

Do đó, quy định mới nên có những điểm mở, để tăng quyền cho các hội đồng ngành đánh giá được năng lực, chất lượng thực chất của hồ sơ ứng viên, hơn là việc chỉ cân đong đo đếm với các số điểm”.

Giáo sư, Tiến sĩ Đặng Hoàng Minh chỉ ra 5 điểm nên xem xét:

Đầu tiên, nên quy định lại về các tạp chí mở vì hiện nay có rất nhiều tranh cãi về chất lượng. Ví dụ như tạp chí của nhà xuất bản MDPI có một số bài báo có chất lượng chưa tốt, nhưng vì MDPI vẫn thuộc danh mục Scopus nên vẫn được hội đồng tính điểm theo Quyết định số 37.

Thứ hai, hồ sơ ứng viên hiện được quy định rất chặt chẽ, nhưng nhiều phần về hành chính (có thể kể đến như: bài báo quốc tế có yêu cầu cả trang bìa, mục lục trong khi hiện nay các tạp chí quốc tế cũng không cung cấp cho tác giả trang bìa và mục lục; với sách thì yêu cầu hợp đồng, biên bản nghiệm thu,…). Điều này khiến nhà nghiên cứu tốn kém thời gian trong việc thu thập giấy tờ, chuẩn bị hồ sơ xét chuẩn chức danh.

Thứ ba, việc phân 3 cấp hội đồng, đặc biệt là trách nhiệm và nhiệm vụ của Hội đồng giáo sư cơ sở và Hội đồng giáo sư ngành/liên ngành chưa phân biệt rõ. Điều 12 và Điều 16 của Quyết định số 37 có ghi chức năng nhiệm vụ của Hội đồng giáo sư cơ sở và Hội đồng giáo sư ngành/liên ngành, nhưng trên thực tế, cách làm việc, đánh giá của hai hội đồng này gần như trùng với nhau.

Thứ tư, cần cân nhắc việc cho phép mời thêm các phản biện không là thành viên của Hội đồng giáo sư ngành/liên ngành để đánh giá hồ sơ ứng viên.

Cô Minh lý giải: “Các lĩnh vực khoa học hiện nay mang tính liên ngành, và cũng rất chuyên sâu, và với hội đồng giáo sư ngành/liên ngành chỉ có 9-15 người có thể không am hiểu hết lĩnh vực nghiên cứu sâu của ứng viên. Do đó, việc mời những chuyên gia bên ngoài am hiểu lĩnh vực của ứng viên để có những đánh giá đúng và khách quan là cần thiết”.

Thứ năm, quy định mới cũng cần cân nhắc đến vấn đề liêm chính khoa học. Thực tế, có những ứng viên 1 năm xuất bản 10-20 bài báo quốc tế trong khi những năm trước không có xuất bản nào.

Bên cạnh đó, những điểm về xung đột lợi ích khi đánh giá hồ sơ ứng viên cũng nên được xem xét.

“Khi tôi được mời phản biện hồ sơ của một ứng viên giáo sư tại Đại học Monash (Úc), tôi nhận thấy trong yêu cầu của họ có quy định rằng người phản biện không được có quan hệ cá nhân, quan hệ thầy trò với ứng viên và không được có bất kỳ công trình chung nào với ứng viên. Do tôi từng có một bài báo chung với ứng viên cách đây 10 năm, tôi đã viết thư thông báo cho họ. Ngay sau đó, họ phản hồi và xin lỗi vì sơ suất trong quá trình rà soát, đồng thời xác nhận rằng tôi không đủ điều kiện để phản biện hồ sơ của ứng viên này” – cô Minh chia sẻ.

Cũng theo cô Minh, để có những phó giáo sư, giáo sư thực sự uy tín, có đóng góp thì hội đồng đánh giá cần công tâm, khách quan và có năng lực. Do vậy quy trình, tiêu chí lựa chọn thành viên hội đồng ngành, hội đồng nhà nước cần rõ ràng, minh bạch, có tính đại diện.

Cùng bàn luận về chủ đề này, Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Thị Phương Lan cho rằng cần có tiêu chí xác định rõ tạp chí khoa học như thế nào là tạp chí uy tín.

“Nếu có thể, chúng ta nên xem xét bổ sung danh mục các tạp chí trong nước để góp phần nâng tầm chất lượng của các tạp chí của Việt Nam. Đồng thời cũng cần có quy định tạp chí trong nước từ 1 điểm trở lên tối đa là bao nhiêu bài” – cô Lan chia sẻ.

Cô Lan cũng bày tỏ, cần bổ sung thêm quy định chi tiết về sách chuyên khảo vì hiện nay đang có nhiều ý kiến bàn luận. Thực tế, một số cuốn sách của ứng viên trong hồ sơ được xếp vào mục sách chuyên khảo, nhưng thông qua thẩm định lại xác định đó chỉ là tham khảo, vì không phải là kết quả nghiên cứu chuyên sâu và tương đối toàn diện về một vấn đề khoa học chuyên ngành.

Bên cạnh đó, cần có quy định cụ thể hơn về đề tài cấp cơ sở. Vì theo cô Lan, một số ứng viên thực hiện đề tài cấp cơ sở với số lượng kinh phí ít, quy mô thực hiện nhỏ, tương đương với một nhiệm vụ khoa học chứ chưa tương đương với đề tài cấp cơ sở.

Ngoài khó khăn về nghiên cứu khoa học, giảng viên cao cấp Khoa Tâm lý học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng quy định ở khoản 3 Điều 4 yêu cầu tiêu chuẩn chung của giáo sư, phó giáo sư: "Hoàn thành nhiệm vụ được giao và thực hiện đủ số giờ chuẩn giảng dạy theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong đó có ít nhất 1/2 số giờ chuẩn giảng dạy trực tiếp trên lớp. Đối với giảng viên thỉnh giảng phải thực hiện ít nhất 50% định mức giờ chuẩn giảng dạy quy định tại khoản này" không dễ thực hiện.

"Rất nhiều ứng viên ở các viện nghiên cứu, trường đại học gặp khó khăn về tiêu chuẩn này" - nữ giảng viên khẳng định.

Bên cạnh đó, theo cô Hoa, một số tiến sĩ đã đáp ứng đủ các tiêu chuẩn xét duyệt chức danh giáo sư, phó giáo sư nhưng lại chưa có cơ quan nào bổ nhiệm họ. Vì những ứng viên này có thể làm việc trong viện nghiên cứu, các cơ quan không có chức năng đào tạo hoặc không trực thuộc các trường đại học. Do đó, họ không có cơ sở để xét duyệt và bổ nhiệm chức danh.

Chia sẻ tâm tư, Phó giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thị Thu Hoa hi vọng nên giảm định mức giờ dạy và tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu đăng ký các công trình nghiên cứu một cách thuận lợi, vì nếu không có đề tài rất khó có thể có công bố quốc tế.

Cô Hoa cũng cho rằng đối với các ứng viên có thành tích nghiên cứu xuất sắc nhưng thiếu thâm niên, nên linh hoạt hóa tiêu chuẩn thâm niên để có thể giúp họ có cơ hội được công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư.

Trần Trang