Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) để lấy ý kiến góp ý.

Nội dung trong dự thảo đã mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Bên cạnh đó, việc đưa chức danh giảng viên đồng cơ hữu vào dự thảo đang thu hút sự quan tâm, cùng nhiều ý kiến góp ý từ chuyên gia, lãnh đạo cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Tự chủ đi kèm với trách nhiệm giải trình

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Thạc sĩ Huỳnh Ngọc Hợi - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Phương Đông (Thành phố Đà Nẵng) cho rằng, dự thảo mở rộng quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẽ mang lại nhiều thuận lợi.

Trong hoạt động chuyên môn, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẽ chủ động hơn trong việc xây dựng phương án tuyển sinh phù hợp với người học và đặc thù ngành nghề. Đồng thời, nhà trường có thể linh hoạt điều chỉnh chỉ tiêu, mở ngành nghề mới theo nhu cầu thực tế và xu hướng công nghệ. Việc tăng cường hợp tác với doanh nghiệp trong tuyển sinh theo đơn đặt hàng cũng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và bảo đảm đầu ra cho người học.

Ngoài ra, nhà trường còn chủ động hơn trong việc tuyển dụng, ký hợp đồng và sử dụng giảng viên có chuyên môn cao, kinh nghiệm thực tiễn từ doanh nghiệp hoặc các chuyên gia đầu ngành. Điều này giúp bổ sung kịp thời nguồn nhân lực chất lượng cao cho công tác giảng dạy.

Trong quản trị nội bộ, tự chủ giúp trường nghề nâng cao hiệu quả quản lý, đưa ra quyết định nhanh và linh hoạt hơn trong tuyển sinh, nhân sự, tài chính và đầu tư. Khi tự chủ tài chính, các trường có thể chủ động sử dụng nguồn thu để tái đầu tư, nâng cao chất lượng và phát triển đội ngũ. Đồng thời, giảm bớt thủ tục hành chính sẽ giúp tiết kiệm chi phí, tập trung nguồn lực cho hoạt động chuyên môn.

Đặc biệt, mở rộng quyền tự chủ còn tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, buộc các trường nâng cao chất lượng đào tạo, dịch vụ để thu hút học viên và khẳng định vị thế.

3c74a75c1b13ac4df502.jpg
Thạc sĩ Huỳnh Ngọc Hợi – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Phương Đông (Thành phố Đà Nẵng). Ảnh: NVCC.

Cùng bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Phạm Văn Tân - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội chia sẻ: “Hiện nay, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn nên khi tự chủ về tuyển sinh, đội ngũ và cắt giảm thủ tục hành chính là rất cần thiết. Việc này giúp trường linh hoạt hơn trong tổ chức đào tạo cũng như phát huy hiệu quả năng lực nội tại.

Trước hết, tuyển sinh đang là bài toán nan giải đối với nhiều trường nghề. Vì vậy, nhà trường kỳ vọng được trao quyền tự chủ toàn diện trong công tác tuyển sinh từ xác định chỉ tiêu, lựa chọn phương thức xét tuyển đến xây dựng định hướng ngành nghề. Điều này giúp phát huy đúng năng lực, đáp ứng nguyện vọng của người học và gắn với nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động.

Nếu tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp cao, đáp ứng tốt yêu cầu của doanh nghiệp, nhà trường hoàn toàn có thể tăng chỉ tiêu ở những ngành đào tạo thế mạnh. Ngược lại, với các ngành khó tuyển sinh hoặc không còn phù hợp với nhu cầu thị trường, chỉ tiêu cần được rà soát, điều chỉnh. Như vậy, tự chủ chỉ tiêu tuyển sinh sẽ đi kèm với trách nhiệm giải trình về chất lượng và hiệu quả đầu ra.

Ngoài ra, cơ sở giáo dục nghề nghiệp sau khi được cấp phép đào tạo trình độ cao đẳng cho một mã ngành cụ thể nên được tự chủ mở thêm trình độ thấp hơn như trung cấp, sơ cấp hoặc các khóa đào tạo ngắn hạn trong cùng ngành mà không cần xin cấp phép lại. Tuy nhiên, vẫn cần xây dựng đầy đủ hồ sơ và thực hiện báo cáo theo quy định.

Ví dụ, đối với ngành Điều dưỡng, Dược, khi đã được cấp phép đào tạo trình độ cao đẳng, nhà trường có thể linh hoạt triển khai các chương trình ở bậc trung cấp, sơ cấp hoặc các khóa ngắn hạn mà không cần làm thêm thủ tục hành chính. Việc này góp phần giảm bớt gánh nặng thủ tục, đồng thời tạo điều kiện để các cơ sở đào tạo đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhân lực ngày càng đa dạng của thị trường lao động”.

10eb09901b7ead20f46f.jpg
Tiến sĩ Phạm Văn Tân – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội. Ảnh: NVCC.

Đồng quan điểm, Thạc sĩ Nguyễn Khánh Cường - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ Quốc tế LILAMA 2 (tỉnh Đồng Nai) đánh giá, việc mở rộng quyền tự chủ giúp trường nghề chủ động hơn trong công tác tuyển sinh và đào tạo. Nhờ đó, nhà trường có thể điều chỉnh chỉ tiêu phù hợp với năng lực đội ngũ, điều kiện thực tế và nhu cầu thị trường, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả sử dụng nguồn lực.

Bên cạnh đó, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cũng cần được phân quyền đầy đủ trong tổ chức bộ máy, tuyển dụng nhân sự, xây dựng chương trình đào tạo, quản lý tài chính và cần có thêm chính sách hỗ trợ người học.

Hiện nay, chính sách hỗ trợ tài chính vẫn còn hạn chế, trong khi chi phí đào tạo ngày càng tăng. Do đó, cần có thêm chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước để sinh viên yên tâm học tập, đồng thời tạo nền tảng cho các trường nghề triển khai cơ chế tự chủ hiệu quả, bền vững.

Bên cạnh việc trao quyền tự chủ, dự thảo cũng quy định cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải công bố công khai mức học phí và các khoản thu dịch vụ khác cho cho từng năm học và toàn khóa; có trách nhiệm trích một phần nguồn thu học phí để cấp học bổng hoặc hỗ trợ người học có hoàn cảnh khó khăn.

Đồng thời, bổ sung quy định về hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ và trách nhiệm của cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong thiết lập, vận hành và đánh giá, nhấn mạnh yếu tố cải tiến liên tục và công khai cam kết chất lượng đào tạo, chỉ số hiệu quả hoạt động, kết quả tự đánh giá và kế hoạch cải tiến.

Thầy Cường cho rằng, đây là bước tiến tích cực, góp phần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ sở đào tạo đối với xã hội. Đồng thời, yêu cầu này cũng thúc đẩy các trường chủ động hơn trong việc bảo đảm và cải tiến chất lượng. Đây là điểm mới đáng ghi nhận trong bối cảnh giáo dục nghề nghiệp đang đẩy mạnh tự chủ và nâng cao chất lượng hệ thống.

Ngoài ra, việc công khai học phí toàn khóa giúp người học và phụ huynh chủ động kế hoạch tài chính, đồng thời tiếp cận chương trình đào tạo đã kiểm định, minh bạch về chuẩn đầu ra và cơ hội việc làm. Đây là cơ sở quan trọng để thí sinh lựa chọn ngành học phù hợp, thể hiện tinh thần lấy người học làm trung tâm trong đổi mới giáo dục nghề nghiệp.

thay-cuong.jpg
Thạc sĩ Nguyễn Khánh Cường – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ Quốc tế LILAMA 2 (tỉnh Đồng Nai). Ảnh: NVCC.

Cần định nghĩa rõ về giảng viên đồng cơ hữu để tránh lạm dụng khi mở ngành

Tại Điểm b, Khoản 2, Điều 19, Chương IV, dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp quy định: "Giảng viên, giáo viên đồng cơ hữu là người đã được tuyển dụng ở một cơ quan, đơn vị không phải nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân, được cơ sở giáo dục nghề nghiệp bổ nhiệm để đảm nhiệm chức danh giảng dạy các ngành, nghề chuyên môn đặc thù nếu đáp ứng chuẩn nghề nghiệp".

Thầy Cường cho rằng, khái niệm giảng viên, giáo viên đồng cơ hữu hiện chưa được quy định rõ, dễ dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau giữa các cơ sở giáo dục. Nếu được hiểu là người có thể đồng thời giảng dạy và được tính là đồng cơ hữu tại hai đơn vị, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể để nhà trường thuận tiện hơn trong việc tuyển dụng, ký hợp đồng và phân bổ giờ giảng.

Hiện nay, nhiều trường dù chất lượng đào tạo tốt, đội ngũ giảng viên chuyên môn cao nhưng vẫn gặp khó khăn khi đăng ký mở mã ngành mới do chưa đáp ứng đủ cơ cấu giảng viên hoặc giảng viên thiếu văn bằng, chứng chỉ theo quy định.

Việc xem xét tính giảng viên đồng cơ hữu vào đội ngũ giảng viên khi mở ngành mới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các trường trong xây dựng và phát triển chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu thực tế. Đồng thời, điều này cũng giúp mở rộng cơ hội phát triển ngành mới, tăng quy mô tuyển sinh và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường lao động. Tuy nhiên, việc áp dụng cần đảm bảo tuân thủ quy định về giới hạn giờ giảng để giữ vững chất lượng đào tạo và tránh rủi ro trong quá trình tuyển sinh, mở ngành.

Trong khi đó, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội nêu quan điểm, khái niệm về giảng viên đồng cơ hữu sẽ gây nhiều băn khoăn trong quá trình triển khai thực tế. Đây là những người đang công tác tại cơ quan, đơn vị khác được cơ sở giáo dục mời tham gia giảng dạy và cùng chịu trách nhiệm chuyên môn. Vì vậy, việc sử dụng đội ngũ này sẽ gặp khó khăn nếu thiếu cơ chế phối hợp rõ ràng giữa cơ sở giáo dục và đơn vị nơi người lao động đang công tác.

Nhiều doanh nghiệp, bệnh viện không đồng ý cho nhân sự của họ tham gia giảng dạy, do chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm, quyền lợi hay thời gian làm việc giữa hai bên. Nếu không có quy định rõ ràng, dễ xảy ra nhầm lẫn giữa giảng viên đồng cơ hữu với giảng viên thỉnh giảng hoặc kiêm nhiệm.

Ngoài ra, có thể đây đó sẽ “lợi dụng” danh nghĩa giảng viên đồng cơ hữu để hợp thức hóa điều kiện mở ngành hoặc tăng chỉ tiêu tuyển sinh. Đây là khái niệm dễ tạo ra kẽ hở trong quản lý chất lượng. Vì vậy, cần có hướng dẫn cụ thể và cơ chế phối hợp giữa nhà trường và đơn vị chủ quản của giảng viên để tránh tình trạng hình thức, thiếu thực chất.

sv-truong-cao-dang-y-te-ha-noi.jpg
Sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội trong một buổi học thực hành. Ảnh: NTCC.

Còn theo Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Phương Đông, cần làm rõ mối quan hệ pháp lý và hành chính giữa giảng viên đồng cơ hữu với cơ quan, đơn vị chính của họ và cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Ngoài ra, cần chi tiết hóa các chuẩn nghề nghiệp cụ thể mà giảng viên đồng cơ hữu phải đáp ứng, bao gồm cả chuẩn về kiến thức chuyên môn, kỹ năng sư phạm, kinh nghiệm thực tiễn và các chứng chỉ liên quan.

Về phân công và bổ nhiệm cần có quy trình bổ nhiệm rõ ràng, minh bạch, bao gồm các bước từ đề xuất, xét duyệt hồ sơ, kiểm tra năng lực đến ra quyết định bổ nhiệm. Cùng với đó, phải quy định cụ thể hình thức hợp đồng hoặc thỏa thuận giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giảng viên đồng cơ hữu và cơ quan, đơn vị chính của họ. Hợp đồng cần nêu rõ thời hạn, quyền lợi, nghĩa vụ và chế độ làm việc.

Về khối lượng kiến thức giảng dạy cần quy định cụ thể về số giờ giảng dạy tối thiểu/tối đa giảng viên đồng cơ hữu có thể đảm nhiệm trong một học kỳ/năm học, để đảm bảo họ sẽ hoàn thành tốt cả công việc chính tại cơ quan và nhiệm vụ giảng dạy tại trường.

Bên cạnh giảng dạy, cần quy định rõ ràng giảng viên đồng cơ hữu có phải tham gia vào các hoạt động khác của trường như hướng dẫn đồ án, khóa luận, nghiên cứu khoa học, hoặc các hoạt động ngoại khóa không?

Về trách nhiệm, giảng viên đồng cơ hữu phải đảm bảo chất lượng giảng dạy, tuân thủ chương trình đào tạo và đánh giá kết quả học tập của người học công bằng, khách quan; đảm bảo cập nhật kiến thức, kỹ năng chuyên môn liên tục để truyền đạt những kiến thức mới nhất, sát với thực tiễn ngành nghề.

Ngoài ra, phải phối hợp chặt chẽ với các giảng viên cơ hữu khác và bộ phận chuyên môn của trường để đảm bảo tính liên thông, đồng bộ trong chương trình đào tạo cũng như tuân thủ nội quy, quy chế của nhà trường.

truong-cd-phuong-dong.jpg
Sinh viên nghề Điều dưỡng, Trường Cao đẳng Phương Đông (Thành phố Đà Nẵng) trong một buổi học thực hành. Ảnh: website nhà trường.

"Về nguyên tắc, việc mở ngành đòi hỏi đội ngũ giảng viên cơ hữu ổn định và toàn thời gian nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo và sự phát triển bền vững của ngành học. Việc tính giảng viên đồng cơ hữu vào điều kiện để xác định chỉ tiêu tuyển sinh, đặc biệt khi mở ngành mới cần hết sức thận trọng.

Trong đó, nên quy định tỷ lệ tối đa giảng viên đồng cơ hữu được tính vào tổng số giảng viên phục vụ cho việc mở ngành hoặc duy trì ngành (ví dụ, không quá 10-20% tổng số giảng viên cơ hữu). Điều này giúp đảm bảo ngành học vẫn có "xương sống" là giảng viên cơ hữu toàn thời gian để duy trì lâu dài. Ngoài ra, cần dựa trên cơ sở khoa học như khối lượng giảng dạy thực tế, vai trò trong các hoạt động khác của nhà trường, thời gian gắn bó và tính đặc thù của ngành.

Đặc biệt, với những ngành học đặc thù, cần ưu tiên giảng viên cơ hữu toàn thời gian để đảm bảo chất lượng và quản lý chặt chẽ. Không nên tính giảng viên đồng cơ hữu vào điều kiện để xác định chỉ tiêu tuyển sinh khi mở những ngành này, nhằm tránh tình trạng trường lợi dụng quy định để mở ngành dễ dãi mà thiếu nguồn lực giảng viên thực chất.

Vì vậy, có thể xem xét tính 1 giảng viên đồng cơ hữu bằng 0,5 giảng viên cơ hữu trong đội ngũ giảng viên để tính chỉ tiêu tuyển sinh khi mở ngành/nghề mới", thầy Hợi nhấn mạnh.

Góp ý thêm về dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Phương Đông đề xuất: Thứ nhất, cơ sở giáo dục cần tăng cường gắn kết với doanh nghiệp và thị trường lao động. Mặc dù, dự thảo có đề cập đến một số yếu tố nhưng cần làm rõ và mạnh mẽ hơn cơ chế gắn kết với doanh nghiệp như: doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào xây dựng và thẩm định chương trình đào tạo; cơ chế bắt buộc về đào tạo tại doanh nghiệp; ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp tham gia đào tạo; thành lập hội đồng tư vấn ngành.

Thứ hai, cần có các cơ chế tài chính, đãi ngộ hấp dẫn về lương, thưởng, phụ cấp trách nhiệm, hỗ trợ nghiên cứu để thu hút kỹ sư, chuyên gia, nghệ nhân có kinh nghiệm thực tiễn tham gia giảng dạy hoặc làm việc bán thời gian. Đồng thời, xây dựng chương trình bồi dưỡng, nâng cao năng lực sư phạm và chuyên môn thực tiễn; có đánh giá định kỳ và chuẩn nghề nghiệp cho giảng viên.

Thứ ba, cần đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong trường nghề như xây dựng nền tảng học liệu số chung; đầu tư trang thiết bị công nghệ cao cũng như nâng cao năng lực số cho giảng viên và người học.

Thứ tư, tăng cường tính độc lập của các tổ chức kiểm định, xây dựng bộ tiêu chuẩn kiểm định giáo dục nghề nghiệp theo từng cấp độ ngành nghề và công khai kết quả kiểm định.

Thứ năm, khuyến khích thành lập quỹ phát triển giáo dục nghề nghiệp, có chính sách ưu đãi cho cơ sở tự chủ toàn diện. Đặc biệt, thay vì cấp phát ngân sách theo kiểu dàn trải nên chuyển sang cơ chế đấu thầu, đặt hàng đào tạo từ ngân sách nhà nước cho các ngành nghề ưu tiên, ngành nghề xã hội cần dựa trên năng lực và chất lượng của cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Những đề xuất này nhằm mục tiêu tạo ra hệ sinh thái giáo dục nghề nghiệp năng động, linh hoạt, thích ứng cao với sự thay đổi của thị trường lao động và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, từ đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam.

Khánh Hòa