Một thực tế không ai chối cãi là giáo dục ở Việt Nam đã đi tụt hậu và tệ hơn nữa, trong vòng hai thập kỷ gần đây, tham nhũng đã ăn sâu vào giáo dục - từ lớp mầm non đầu tiên tới văn bằng tiến sĩ - đến nỗi ít phụ huynh nào dám nghĩ là con mình sẽ được giáo huấn thành người trong thời buổi này.
Nhiều lý do khách quan cũng như chủ quan đã gây ra tình trạng này và cũng đã được nhiều người trong mọi giới, từ chính các sinh viên đến các lãnh đạo nhà nước, mổ xẻ trong nhiều thập niên qua.
Góp ý cho vấn đề này, Báo Giáo dục Việt Nam giới thiệu bài viết của tác giả Vũ Đức Vượng, nguyên là giám đốc Chương Trình Giáo Dục Tổng Quát tại ĐH Hoa Sen, TP.HCM, và hiện biên tập tờ TRỒNG NGƯỜI, một “chợ đầu mối” về các vấn đề giáo dục tại Việt Nam, xuất bản hàng tháng ở San Francisco, Mỹ.
Bài viết này cũng đã được ông trình bày tại cuộc toạ đàm về hướng phát triển cho giáo dục ngoài công lập, mới được tổ chức gần đây tại TP.HCM.
Bài viết thể hiện quan điểm, góc nhìn và cách hành văn của tác giả. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả.
Tôi sẽ đi ngay vào vấn đề làm sao để các trường ngoài công lập (NCL) phát triển vững mạnh, đáp ứng các nhu cầu chính đáng của sinh viên và của đất nước.
Tôi nghĩ có ba điều kiện chính trong cuộc cải tổ giáo dục mà ai cũng tuyên bố là phải “căn bản” và “toàn diện”: tự chủ về tài chính, tự trị về quản lý, và tự do học thuật.
Tự chủ tài chính
Mảng này có lẽ đơn giản nhất trong ba khía cạnh cải tổ: để các trường ĐH tự chủ về tài chính của họ.
Bất công giáo dục đang dành hết cho đại học, cao đẳng ngoài công lập
(GDVN) - Nhiều nhà đầu tư vào các trường đại học ngoài công lập đã nêu lên ý kiến về tình trạng bất công, khiến cho mô hình này đang ngày càng gặp nhiều khó khăn.
Đa số các trường ngoài công lập mà thành công đã đạt được tự chủ này: họ thu học phí, trả lương giảng viên, nhân viên, xây cất trường ốc, tặng học bổng cho sinh viên ưu tú hay có hoàn cảnh khó khăn, mua sắm thiết bị, v.v. và còn đóng thuế cho nhà nước nữa.
Do đó, dự kiến tự chủ tài chính mà chính phủ đang thảo luận sẽ ảnh hưởng nhiều hơn đến các trường công lập, vì cho tới nay các trường công vẫn còn dựa vào ngân sách quốc gia hơn là hoạt động như một doanh nghiệp có trách nhiệm.
Kinh nghiệm của các trường công lập bên Mỹ, hầu hết là trường của tiểu bang trong hệ thống chính trị liên bang, từ sau Thế chiến II có thể là một thí dụ trong trường hợp này: nhà nước sẽ giảm ngân sách cho các trường công, buộc các trường này sẽ phải xét lại biên chế cho hiệu quả hơn, chắc chắn sẽ phải tăng học phí, và sẽ phải dần dần hành xử giống như các trường ngoài công lập.
Đây không phải là một đại họa hay một nguy cơ cho các trường công. Ở Mỹ, hệ thống trường công vẫn là cột trụ của GDĐH, nên các trường công ở Việt Nam cũng còn rất nhiều lợi thế để giữ cương vị chủ chốt của họ.
Nhưng lý do trường ở Mỹ thành công cho đến nay là hai điều kiện khác nữa, quan trọng hơn tự chủ tài chính nhiều; và đây mới là hai vấn đề cốt lõi mà các ĐH ở Việt Nam, công cũng như tư, phải đạt được thì mới có hy vọng thành công.
Tự trị quản lý
Có người đã ví von gọi GDĐH ở Việt Nam là một con gà công nghiệp.
Như một đứa con “gà công nghiệp” năm nay đã 40 tuổi nhưng mẹ vẫn lo cho từng bữa ăn, từng ly nước; vẫn giặt ủi quần áo và chỉ cho con mỗi ngày mặc bộ nào; vẫn kiểm soát con đi chơi với ai, ở đâu, làm gì … bất cứ lúc nào; bố vẫn mua xe cho con và cho tiền đổ xăng, và tiếng là muốn có cháu để bồng nhưng thực tế thì vẫn không muốn con cưng của mình lọt vào tay bất cứ người nào khác.
Thế nên chi bằng, cứ o bế nó, dù nó có đôi lúc nghẹt thở đi nữa, nhưng nó vẫn nằm trong vòng kiểm soát của mình. Còn gì bảo đảm hơn ?
Cũng vậy, nền giáo dục ở Việt Nam là một con gà công nghiệp, không được dạy tư duy độc lập, càng không dám phản biện lại bố mẹ mình vì vừa sợ mất miếng ngon vừa không biết phản biện thế nào.
Tôi nghĩ GDĐH nước ta còn tệ hơn gà công nghiệp nhiều: con gà không có mục đích gì khác trong cuộc đời ngắn ngủi của nó là “leo lên bàn” hoặc để cúng ông bà, hay để các tay bợm nhậu hả hê với nhau.
Sau đó chỉ còn đống xương và lông, đem ra hố rác là xong. Giáo dục thì khác: học xong mới là lúc đem ra áp dụng và giúp mình, giúp đời. Vì thế, nếu không để cho giáo dục tự do và tự tin thì nó sẽ không bao giờ dám bay bổng, dám sáng tạo.
Ngược lại, ở Mỹ, trẻ con từ rất bé đã được trau dồi ý thức tự lập, tự quyết định cho chính mình, nhưng trong khuôn khổ mỗi người là một thành viên cơ hữu của xã hội chứ không ai là một “hải đảo.”
Lớn lên, xã hội và giáo dục Mỹ luôn dạy mỗi người có trách nhiệm với xã hội, và khi thấy điều gì bất công thì người dân có quyền đòi thay đổi. Bao nhiêu cải tổ trong xã hội Mỹ là dẫn chứng cho lối tư duy này, từ những vấn đề bình quyền của mọi người đến những vấn đề xã hội như cấm lái xe khi say xỉn, bài trừ tệ nạn hút thuốc lá, hay những luật để bào vệ môi trường… Tất cả đều do sáng kiến, đề xuất, và thường là tranh đấu của người dân đòi chính quyền thay đổi.
Về giáo dục, không những các trường Mỹ tự chủ về tài chính, như đã nói bên trên, mà còn tự trị về quản lý. Mấy tháng nay, truyền thông trong nước đầy những tranh luận về ĐH lợi nhuận hay phi lợi nhuận (LN v. PLN), nên chắc quí vị trong cử tọa hôm nay không lạ gì với vấn đề này cũng như việc tự trị của các trường NCL. Ở đây, tôi chỉ dùng các các trường công bên Mỹ để làm ví dụ về tự trị quản lý.
Nói một cách đơn giản, chính quyền tiểu bang chỉ định thành phần Hội Đồng Quản Trị gồm những người am tường và thiện chí để bảo vệ quyền lợi cho mọi người trong bang.
Dĩ nhiên, trong trường hợp này, sinh viên và giảng viên là ưu tiên. HĐQT tuyển chọn, công khai, Hiệu trưởng rồi để HT gần như tự do quản lý nhà trường. Nhưng một số thành phần khác cũng có ảnh hưởng đến các chính sách hay cách làm việc của HT như tổ chức của các giảng viên (Academic Senate hay Faculty Association), các công đoàn (Unions) các nhóm có quan tâm riêng (interest groups) và Đoàn sinh viên, v.v….
Mỗi nhóm cố gắng bảo vệ những quyền lợi chính đáng của các thành viên, nên hiệu trưởng không thể là nhà độc tài, nhưng lại rất có hiệu quả nếu thuyết phục, thỏa hiệp được với các thành phần khác trong trường.
Chính quyền liên bang cũng như tiểu bang không can thiệp vào vấn đề quản lý của trường, chẳng hạn như không tỉnh nào có quyền phê chuẩn hay bãi nhiệm HT, việc này chỉ có HĐQT làm được. Cũng không có chuyện “tuyển cử” từ chính quyền địa phương như chúng ta đọc trên báo cách đây vài tuần. Chỉ khi nào có vấn đề phạm pháp thì chính quyền mới vào cuộc.
Chính sách tự trị quản lý này đã giúp các trường ĐH công cũng như tư ở Mỹ phát triển và đạt được mức hiệu quả như ta đã thấy.
Tự do học thuật
Tôi nghĩ tự do học thuật là động lực then chốt và nét đặc trưng của các đại học tiên tiến và thành công trên thế giới. Giáo dục là tranh luận, khám phá, so sánh, lựa chọn, và là một tiến trình mà ai cũng phải tiếp tục suốt đời. Nhất là trong thế giới hôm nay khi iPhone 6 chưa kịp bán thì Apple đã chuẩn bị cho các sản phẩm mới hơn, hay hơn vào năm tới.
Hiện thời ở các trường ĐH Việt Nam còn nhiều môn học đã hết hiệu lực nhưng Bộ GD-ĐT và chính quyền vẫn trung thành bắt buộc các trường dạy. Sinh viên chán các môn này, và thật ra cũng không còn áp dụng được vào đời sống nữa; nhưng nhiều trường vẫn phải dạy và các môn này thành nguồn thu nhập khá tốt cho các trường.
Có nhiều người đề nghị thay đổi sách giáo khoa và thay cả giáo trình nhưng đây mới chỉ là mặt nổi của tảng băng và một phần tương đối nhỏ trong công cuộc cải cách giáo dục. Quyết định “Dạy cái gì?” thì đơn giản hơn những vấn đề khác như “Dạy thế nào?” “Ai được dạy” “Ai được học” “Học thế nào?” “Dạy để làm gì?” v.v…
Giáo dục trên thế giới đã vượt xa chúng ta nên việc mượn giáo trình của họ không có gì khó. Cái khó là chúng ta có dám chấp nhận lối tư duy đằng sau các giáo trình đó không? Hoăc nhà nước chúng ta có dám tin vào những người làm giáo dục và “cởi trói” để họ có thể làm giáo dục chân chính? Hay chúng ta vẫn khư khư “trói buộc” và kiểm soát từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ trong nhà trường, và hậu quả như ta đã thấy.
Một tiêu cực nữa của những qui định và kiểm soát quá khắt khe, nhiều khi chồng chéo nhau trong giáo dục là tạo một chỗ trú ẩn cho những ai thiếu trách nhiệm hay thiếu khả năng: họ thường viện cớ là “không được làm” cái này, cái nọ…. để lười không phải sáng tạo cũng như trốn trách nhiệm những khi sai phạm.
Tóm lại, chỉ khi nào tự chủ tài chính đi cùng với tự do học thuật và tự trị về quản lý thì chúng ta mới có hy vọng dạy và học nghiêm túc để đào tạo những thế hệ Việt trẻ vừa là công dân tốt vừa là con người tốt.
Hôm nay chúng ta chú trọng vào các trường NCL nhưng những bước tôi vừa trình bày ở trên tưởng cũng không khác lắm với các trường công.
Chính phủ đang thảo luận phương cách để các trường công được tự chủ hơn về tài chính. Đó có thể là một chính sách khá hay, buộc các trường công cũng phải thoát ra khỏi sự lệ thuộc hoàn toàn vào ngân sách quốc gia và hành xử gần giống như các trường NCL.
Nhưng tự chủ về tài chính này chỉ có ý nghĩa và hiệu quả khi mọi trường ĐH ở Việt Nam cùng được tự trị về quản lý và được bảo đảm tự do học thuật. Nói cách khác, tự chủ tài chính, tự trị quản lý và tự do học thuật là cái kiềng ba chân để nền giáo dục đại học ở Việt Nam có hy vọng hoàn thành được sứ mạng thật sự của chính nó.