Những năm trở lại đây, quy mô đào tạo sau đại học có xu hướng tăng, ngày càng nhiều người lựa chọn học lên thạc sĩ, tiến sĩ để nâng cao chuyên môn và mở rộng cơ hội nghề nghiệp. Tuy nhiên, sự gia tăng nhanh chóng cũng đặt ra thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học về việc đảm bảo chất lượng đào tạo, nâng cấp cơ sở vật chất, nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên trong công tác đào tạo và nghiên cứu.
Theo đại diện một số cơ sở giáo dục đại học và chia sẻ từ người học, cần có thêm chính sách hỗ trợ tài chính, học bổng cũng như giới thiệu việc làm để thu hút, giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao.
Quy mô đào tạo sau đại học tăng đặt ra yêu cầu nâng cấp cơ sở vật chất và trình độ giảng viên
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thị Ngà - Phó Trưởng phòng, Phòng đào tạo, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, từ năm 2022 đến nay, tình hình tuyển sinh và đào tạo sau đại học của trường có nhiều chuyển biến tích cực. Số lượng người học quan tâm đến chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ tăng cao. Đặc biệt, từ sau dịch Covid-19 ý thức của người lao động về việc học tập nâng cao trình độ, năng lực làm việc và kỹ năng học tập suốt đời được chú trọng nhiều hơn.
Hiện nay, xu hướng gia tăng số lượng người học thạc sĩ, tiến sĩ phản ánh nhu cầu nâng cao trình độ chuyên môn để mở rộng cơ hội việc làm, khẳng định vị thế bản thân và thăng tiến trong sự nghiệp. Sự gia tăng này bắt nguồn từ ý thức phát triển bản thân, sẽ góp phần thúc đẩy xã hội học tập và phát triển một cách bền vững. Đồng thời, tạo sức mạnh nội sinh cho công tác đào tạo, phát triển đội ngũ trí thức trong nước, giúp nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng nhân lực. Nhờ đó, hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo được thúc đẩy, góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên tri thức và hội nhập toàn cầu.
Tuy nhiên, sự gia tăng nhanh chóng cũng đặt ra thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học về việc đảm bảo chất lượng đào tạo, nâng cấp cơ sở vật chất và trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên. Các trường cần phải tăng cường kiểm định, giám sát học thuật cũng như đầu tư vào công tác nghiên cứu chuyên sâu, tránh chạy theo số lượng mà bỏ qua chất lượng nghiên cứu, vốn là cốt lõi của đào tạo sau đại học.

Cùng bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Phan Thị Hoa - nguyên Phó Trưởng phòng, Phòng Đào tạo, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng cho rằng, hiện nay, trong bối cảnh cạnh tranh và áp lực tuyển sinh, các cơ sở giáo dục đại học phải nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên để đảm nhận giảng dạy chuyên sâu. Nhiều trường tạo điều kiện để đội ngũ giảng viên học tập nâng cao trình độ, đặc biệt là tiến sĩ cũng như xét chức danh giáo sư, phó giáo sư.
Vì vậy, việc người học sau đại học gia tăng là tín hiệu tích cực, tạo nhiều thuận lợi cho sự phát triển của nhà trường. Đội ngũ học viên cao học, nghiên cứu sinh không chỉ bổ sung nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, mà còn đóng góp quan trọng trong việc triển khai đề tài có tính ứng dụng cao. Đây là những đề tài giúp nhà trường duy trì hoạt động nghiên cứu liên tục, tạo nền tảng gắn kết chặt chẽ giữa công tác đào tạo và thực tiễn.
Bên cạnh đó, việc gia tăng số lượng người học sau đại học góp phần mở rộng quy mô nghiên cứu, nâng cao chất lượng đào tạo và hình thành môi trường học thuật sôi động hơn. Khi giảng viên và học viên tham gia nhiều đề tài khoa học và công nghệ, họ có cơ hội tiếp cận phương pháp nghiên cứu và tri thức mới để tạo ra những kết quả nghiên cứu mang tính thực tiễn.
Theo cô Hoa, một trong những thách thức của các trường đại học Việt Nam, đặc biệt ở lĩnh vực khoa học tự nhiên, là hạn chế về cơ sở vật chất và trang thiết bị. Để triển khai đề tài nghiên cứu chất lượng, điều kiện thực hành và thí nghiệm là yếu tố then chốt quyết định thành công của nghiên cứu. Tuy nhiên, nhiều trường vẫn thiếu phòng thí nghiệm đạt chuẩn, trang thiết bị hiện đại và dụng cụ thí nghiệm cần thiết. Do đó, một số đề tài nghiên cứu thường bị giới hạn phạm vi, khó phát huy hết tiềm năng.
Ngoài ra, nguồn thu của trường đại học hiện còn hạn chế nên mức lương và chế độ đãi ngộ chưa đủ hấp dẫn để thu hút, giữ chân đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đặc biệt những người từng học tập, nghiên cứu ở nước ngoài chưa muốn quay về làm việc lâu dài tại các trường trong nước.
Không chỉ vậy, ở nước ngoài, giáo sư và phó giáo sư thường được cấp một khoản kinh phí cố định hằng năm để triển khai đề tài, nhờ vậy họ chủ động hơn trong tổ chức nghiên cứu và hướng dẫn học viên sau đại học. Tại Việt Nam, việc xin kinh phí phải trải qua nhiều thủ tục xét duyệt và tuyển chọn đề tài phức tạp. Mặc dù ý tưởng nghiên cứu có giá trị nhưng thủ tục hành chính rườm rà khiến thời gian triển khai bị kéo dài, nhiều khi lỡ mất cơ hội nghiên cứu.

Chương trình học vẫn nặng về lý thuyết, học viên chưa có nhiều cơ hội nghiên cứu chuyên sâu
Dưới góc nhìn của người học, anh Đỗ Hưng Thịnh (sinh năm 2000), hiện đang học thạc sĩ ngành Quản lý báo chí và truyền thông tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền chia sẻ, việc học cao học đòi hỏi khả năng tự học, nghiên cứu độc lập và tư duy phản biện lớn hơn nhiều so với bậc đại học. Nếu trước đây, sinh viên chủ yếu tiếp nhận kiến thức từ giảng viên và giáo trình, thì khi học thạc sĩ, học viên phải chủ động xác định hướng nghiên cứu, tự tìm kiếm tài liệu cũng như định hình nghiên cứu cá nhân. Điều này giúp người học vừa đào sâu kiến thức chuyên ngành vừa rèn luyện kỹ năng tư duy khoa học, giải quyết vấn đề một cách có hệ thống.
Tuy nhiên, áp lực cân bằng giữa quá trình học tập và công việc là một thách thức không nhỏ. Khi mới bước vào chương trình cao học trong nước, việc tìm đọc tài liệu quốc tế, rèn luyện kỹ năng viết học thuật là trở ngại lớn với nhiều học viên. Thêm vào đó, quỹ thời gian bị phân tán cho công việc và gia đình khiến việc học tập, nghiên cứu khó đạt hiệu quả như mong muốn.
Hầu hết học viên cao học đều vừa đi học vừa đi làm nên thời gian tham gia lớp học chủ yếu vào buổi tối hoặc cuối tuần.
“Sau một ngày làm việc, buổi tối tiếp tục lên lớp học khiến tôi cảm thấy không còn đủ năng lượng để tập trung tiếp thu kiến thức. Thậm chí, có những đêm, tôi phải thức đến 2-3 giờ sáng để đọc, tìm hiểu tài liệu và chuẩn bị cho các buổi thảo luận trên lớp. Tình trạng này kéo dài dễ dẫn tới căng thẳng, ảnh hưởng đến sức khỏe và chất lượng học tập, nghiên cứu”, anh Thịnh bày tỏ.

Theo anh Thịnh, công tác đào tạo sau đại học ở Việt Nam đã có những bước tiến nhất định, song vẫn còn hạn chế. Chương trình học vẫn nặng về lý thuyết, học viên chưa có nhiều cơ hội để tham gia nghiên cứu chuyên sâu hay gắn kết với thực tiễn nghề nghiệp. Bên cạnh đó, nguồn tài liệu tham khảo quốc tế còn hạn chế, kỹ năng nghiên cứu và công bố khoa học của học viên chưa được rèn luyện bài bản.
Ngoài áp lực về thời gian và khối lượng học tập, vấn đề tài chính cũng là một thách thức lớn đối với người học. Khác với bậc đại học, chương trình sau đại học gần như không có học bổng, phần lớn học viên phải tự chi trả toàn bộ học phí và các khoản chi phí liên quan. Trong khi đó, nhiều người vừa phải gánh vác chi phí sinh hoạt gia đình, vừa phải dành kinh phí cho việc học. Điều này khiến không ít trường hợp, dù có mong muốn tiếp tục học tập, nghiên cứu chuyên sâu nhưng phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi theo học chương trình đào tạo sau đại học.
Trước thực tế đó, anh Thịnh mong muốn có thêm cơ chế hỗ trợ tài chính phù hợp cho học viên sau đại học như học bổng nghiên cứu, chính sách vay ưu đãi hoặc quỹ hỗ trợ học tập. Điều này không chỉ giúp giảm bớt gánh nặng kinh tế, mà còn khuyến khích người học tập trung hơn vào nghiên cứu, nâng cao chất lượng và đóng góp cho sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ngoài ra, cần quan tâm đến cơ hội nghề nghiệp của học viên sau khi ra trường. Trên thực tế, nhiều người theo học thạc sĩ với kỳ vọng mở rộng cánh cửa thăng tiến trong sự nghiệp. Tuy nhiên, mối liên kết giữa nhà trường với cơ quan tuyển dụng, doanh nghiệp hay viện nghiên cứu vẫn còn hạn chế.
Vì vậy, cần tăng cường hợp tác với doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức nghiên cứu để mở rộng cơ hội việc làm, tham gia đề án, dự án thực tiễn cho học viên. Qua đó, người học có thể củng cố kiến thức và xây dựng được mạng lưới nghề nghiệp, nâng cao cơ hội cạnh tranh trên thị trường lao động sau khi tốt nghiệp.
Đồng quan điểm, Tiến sĩ Phan Thị Hoa cho rằng, nghiên cứu sinh trong nước thường phải tự chi trả gần như toàn bộ kinh phí nghiên cứu, từ chi phí đi khảo sát, thu thập mẫu cho đến mua hóa chất, dụng cụ thí nghiệm. Trong khi đó, ở nước ngoài, nghiên cứu sinh được nhận kinh phí từ dự án nghiên cứu do giáo sư, phó giáo sư hướng dẫn đứng tên, kèm theo học bổng hoặc hỗ trợ về học phí và sinh hoạt phí. Nhờ vậy, người học có điều kiện thực hiện đề tài, tiếp cận với thiết bị hiện đại, mà không bị áp lực tài chính.
Thực trạng này đặt ra thách thức lớn cho các trường đại học Việt Nam trong việc thu hút và giữ chân người học sau đại học. Để khắc phục, các trường cần triển khai chính sách học bổng hợp lý, đảm bảo đủ sức hấp dẫn với người học. Đồng thời, cần tăng cường đầu tư vào cơ sở vật chất, trang thiết bị thí nghiệm để tạo môi trường nghiên cứu thuận lợi, giúp học viên tập trung nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và gắn kết chặt chẽ giữa lý thuyết với thực tiễn.

Trong khi đó, Phó Trưởng phòng, Phòng đào tạo, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, để phát triển, thu hút người học bậc sau đại học, bên cạnh học bổng, nhà trường đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở vật chất, hiện đại hóa phòng thí nghiệm cũng như xây dựng môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp.
Đồng thời, nhà trường cần tập trung nâng cao vị thế thông qua đổi mới quản trị, kiểm định chương trình đào tạo, quốc tế hóa hoạt động đào tạo. Những giải pháp đồng bộ này sẽ góp phần tạo nên môi trường học thuật hấp dẫn, thu hút nhân tài theo học, ở lại làm việc.
Theo Phó trưởng phòng, Phòng Đào tạo, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, để ngày càng thu hút và phát triển đội ngũ nhân lực trình độ cao tại Việt Nam, cần phải có chiến lược đồng bộ, thực chất và dài hạn.
Đầu tiên, cần hoàn thiện cơ chế chính sách thu hút nhân tài thông qua việc xây dựng khung chính sách quốc gia tổng thể, áp dụng cơ chế tuyển dụng linh hoạt, cùng ưu đãi đặc biệt như miễn giảm thuế, hỗ trợ nhà ở, bảo hiểm nâng cao.
Tiếp đó, chính sách đãi ngộ cần có sự cạnh tranh, dựa trên hiệu suất, đồng thời khuyến khích các công bố khoa học, sáng tạo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người tài.
Không những vậy, Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, triển khai hiệu quả chính sách "chất xám hồi hương", đồng thời công nhận bằng cấp, kinh nghiệm quốc tế. Trong đó, cần chú trọng đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong nước thông qua cải tiến chương trình sau đại học và hỗ trợ học bổng cho người học xuất sắc.
Việc xây dựng môi trường học thuật hấp dẫn và ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý nhân tài cũng là yếu tố then chốt cần chú trọng. Chỉ khi đồng thời triển khai những giải pháp này, Việt Nam mới có thể giữ chân và phát huy hiệu quả đội ngũ trí thức trình độ cao.