Vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (Nghị quyết số 71-NQ/TW). Trong đó, một trong những nhiệm vụ, giải pháp được nêu ra là "bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp không phụ thuộc vào mức độ tự chủ tài chính".
Trước đó, trong bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 12, khóa XIII (diễn ra ngày 19/7/2025), về nội dung sửa đổi, bổ sung một số nghị quyết, kết luận của Trung ương để tạo cơ sở chính trị cho mục tiêu tiếp tục cải cách, đổi mới đất nước, ở lĩnh vực giáo dục đào tạo có nêu: “không lấy mức độ tự chủ tài chính làm căn cứ để xác định mức độ tự chủ đối với cơ sở giáo dục, đào tạo công lập”.
Theo chia sẻ của lãnh đạo một số cơ sở giáo dục đại học, Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/06/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập và Nghị định số 111/2025/NĐ-CP ngày 22/05/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021, đã quy định việc phân loại mức độ tự chủ tài chính, giúp xác định rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng đơn vị, đồng thời tạo động lực để các đơn vị nâng cao hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng vào thực tiễn, lãnh đạo cơ sở giáo dục đại học cho rằng vẫn còn những vướng mắc nhất định.
Do đó, tinh thần chỉ đạo "không lấy mức độ tự chủ tài chính làm căn cứ để xác định mức độ tự chủ đối với cơ sở giáo dục, đào tạo công lập" được kỳ vọng sẽ tháo gỡ khó khăn trong thực hiện tự chủ, để các trường được tự chủ thực chất, hiệu quả.
Nhiều bất cập khi mức độ tự chủ của trường đại học khi gắn với tự chủ tài chính
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quang - Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm (Đại học Thái Nguyên) chia sẻ, việc cơ sở giáo dục đại học công lập đang thực hiện tự chủ nhưng chủ yếu gắn với tự chủ tài chính xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau.
Thứ nhất, chính sách và định hướng chưa thật sự rõ ràng, còn thiên về các quy định pháp lý tài chính, khiến trường đại học hiểu tự chủ tài chính là trọng tâm của cơ chế tự chủ.
Thứ hai, ngân sách dành cho giáo dục còn hạn chế, khuyến khích các trường tự chủ tài chính nên vô hình chung tạo áp lực cho các trường phải tập trung vào việc tìm nguồn thu, dẫn đến hiểu tự chủ đồng nhất với tự chủ tài chính.
Thứ ba, mặc dù các văn bản chính sách có đề cập đến tự chủ học thuật, tổ chức, và nhân sự, nhưng hướng dẫn cụ thể về các khía cạnh này còn hạn chế. Do đó, các trường thường tập trung vào tự chủ tài chính vì dễ đo lường hơn (qua nguồn thu, chi phí).
Thứ tư, các trường phải chi trả chi phí vận hành như lương giảng viên, cơ sở vật chất, nghiên cứu,.. trong khi nguồn ngân sách nhà nước giảm dần, buộc các trường phải ưu tiên tìm nguồn thu.
Thứ năm, cạnh tranh trong tuyển sinh, nguồn thu từ học phí trở thành yếu tố quan trọng để đảm bảo hoạt động, đồng thời nhu cầu đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất đáp ứng các yêu cầu về kiểm định chất lượng giáo dục và thu hút sinh viên (thư viện, phòng thí nghiệm, công nghệ,…) đòi hỏi nguồn tài chính lớn nên tư duy về tự chủ đồng nghĩa với tự chủ tài chính.

Chỉ ra một số hệ quả khi thực hiện cơ chế tự chủ nhưng chủ yếu gắn với tự chủ tài chính, thầy Quang cho biết, đơn cử như gia tăng khoảng cách giữa các trường. Đối với các trường ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa hoặc các trường có ngành học ít thu hút sinh viên (như nông, lâm nghiệp, xã hội…) sẽ gặp khó khăn trong việc tạo nguồn thu, dẫn đến bị đánh giá là “ít tự chủ” hơn so với các trường ở thành phố hoặc các trường có ngành học “hot” (như Công nghệ thông tin, Kinh tế,..).
“Lấy ví dụ, với Trường Đại học Nông Lâm (Đại học Thái Nguyên), nhà trường khó thu hút sinh viên nên khó có nguồn thu lớn từ học phí, trong khi một số trường ở Hà Nội hoặc Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều điều kiện để thu hút người học, hợp tác quốc tế để tự chủ tài chính, dẫn đến sự bất bình đẳng trong cơ hội phát triển”, thầy Quang chia sẻ.
Cũng theo thầy Quang, để đạt mức độ tự chủ tài chính, nhiều trường tăng học phí (vẫn theo quy định cho phép), đặc biệt là đối với các chương trình tiên tiến, liên kết quốc tế, gây khó khăn cho sinh viên khu vực miền núi, gia đình có thu nhập thấp thì cũng làm giảm tính công bằng trong giáo dục.
Áp dụng tự chủ tài chính cũng khiến trường tập trung mở các chương trình đào tạo theo xu thế thị trường để thu hút sinh viên, ít quan tâm đến các ngành khoa học cơ bản, khoa học xã hội, nông lâm nghiệp,... những ngành được cho là “ít sinh lời”. Bên cạnh đó, việc tập trung vào tự chủ tài chính cũng khiến các trường ít đầu tư vào tự chủ học thuật, tự chủ bộ máy tổ chức,... dẫn đến sự phụ thuộc vào các quy định, giảm tính linh hoạt và sáng tạo.
Cùng chia sẻ về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thanh Đức - Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm (Đại học Huế) cho rằng lâu nay xã hội vẫn có sự hiểu nhầm khi coi tự chủ đại học đồng nghĩa với tự chủ tài chính. Và trên thực tế, đối với những ngành nghề mang tính đặc thù cao, khi áp đặt cách hiểu này thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
“Đối với Trường Đại học Nông Lâm (Đại học Huế), các ngành đào tạo về nông nghiệp, lâm nghiệp vốn được xác định là ngành quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội nhưng lại ít có người theo học. Do đó, nếu buộc giảng viên phải xoay xở để có nguồn thu về cho trường thì rất dễ làm mất đi môi trường học thuật và sự sáng tạo của các thầy cô”, thầy Đức chia sẻ.
Cũng theo thầy Đức, trong thực hiện tự chủ tài chính, những cơ sở giáo dục đại học có lợi thế tuyển sinh thì không đáng lo ngại, nhưng đối với các trường đào tạo ngành đặc thù như nông, lâm nghiệp thì lại gặp nhiều khó khăn, do số lượng sinh viên không nhiều, khó duy trì. Ít người học nhưng các ngành này vẫn có vai trò đặc biệt quan trọng, giống như “nuôi quân ba năm dụng một giờ”, góp phần phát huy lợi thế vùng miền, nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa.
Kỳ vọng tạo chuyển biến sâu sắc
Tinh thần chỉ đạo “không lấy mức độ tự chủ tài chính làm căn cứ để xác định mức độ tự chủ đối với cơ sở giáo dục, đào tạo công lập” được lãnh đạo cơ sở giáo dục đại học kỳ vọng sẽ mang lại chuyển biến tích cực trong tư duy, mô hình quản trị và định hướng phát triển cho các cơ sở giáo dục đại học công lập. Chia sẻ về điều này, thầy Đức bày tỏ sự phấn khởi và cho rằng đây là tín hiệu để những chính sách đi vào thực chất hơn, các trường đại học được tự chủ đúng nghĩa.
Việc không lấy mức độ tự chủ tài chính làm căn cứ để xác định mức độ tự chủ sẽ giúp thay đổi cách hiểu về tự chủ. Cụ thể, thay vì tập trung vào việc tự chủ tài chính (giảm phụ thuộc vào ngân sách nhà nước), các cơ sở giáo dục được khuyến khích hiểu tự chủ là một khái niệm đa chiều, nghĩa rộng, bao gồm các khía cạnh như: tự chủ về tài chính (quản lý nguồn thu, chi); tự chủ về tổ chức và nhân sự (quyền quyết định trong tuyển dụng, bổ nhiệm, tổ chức bộ máy); tự chủ về học thuật (quyền xây dựng, điều chỉnh chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy,..),... Từ đó giúp lãnh đạo cơ sở giáo dục đại học nhận thức rằng tự chủ không chỉ gắn với vấn đề tài chính mà còn là khả năng sáng tạo và linh hoạt trong mọi khía cạnh hoạt động khác.
Cùng với đó, thầy Đức chia sẻ thêm, động lực phát triển phải dựa trên mạng lưới quy hoạch và nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, các bộ ngành giao, gắn với thế mạnh riêng của từng cơ sở giáo dục. Do đó, khi được tự chủ thực chất sẽ tạo bước ngoặt để các trường khẳng định vị trí, vai trò trong xã hội.

Còn thầy Quang cho rằng, việc không lấy mức độ tự chủ tài chính làm căn cứ để xác định mức độ tự chủ mang lại những chuyển biến sâu sắc trong tư duy, mô hình quản trị, và định hướng phát triển của các cơ sở giáo dục công lập. Trước hết là giúp giảm áp lực tài chính, tập trung vào chất lượng; giúp công bằng và toàn diện hơn.
“Khi tự chủ tài chính không phải là tiêu chí duy nhất, các trường sẽ không còn chịu áp lực phải tăng học phí hoặc tìm nguồn thu bằng mọi giá. Thay vào đó, các trường có thể tập trung vào nâng cao chất lượng giáo dục, cải tiến phương pháp giảng dạy, và đáp ứng nhu cầu xã hội. Bên cạnh đó, các trường khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, hoặc những nơi có nguồn thu hạn chế vẫn có cơ hội được trao quyền tự chủ; giúp xóa bỏ tư duy “tự chủ chỉ dành cho các trường giàu” và thúc đẩy sự phát triển đồng đều trong hệ thống giáo dục công lập.
Khi không bị ràng buộc bởi tiêu chí tài chính, các cơ sở giáo dục được khuyến khích đổi mới trong cách tổ chức, quản lý, và xây dựng chương trình đào tạo. Ví dụ như trường đại học có thể thiết kế chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu xã hội, dù chưa tự chủ hoàn toàn về tài chính”, thầy Quang chia sẻ.
Ngoài ra, khi tự chủ không chỉ dựa vào tài chính, các trường có thể thiết lập cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả hoạt động ở nhiều khía cạnh, như chất lượng đào tạo, hiệu quả quản lý, và tác động xã hội; đòi hỏi mô hình quản trị minh bạch, chuyên nghiệp hơn; tập trung vào việc xây dựng mạng lưới hợp tác với các tổ chức, doanh nghiệp trong, ngoài nước để hỗ trợ hoạt động đào tạo.
“Tinh thần không lấy mức độ tự chủ tài chính làm căn cứ để xác định mức độ tự chủ giúp nhà trường phát huy thế mạnh và đạt được những chuyển biến tích cực như: không còn xem việc thiếu hụt nguồn thu từ học phí là rào cản đề đạt tự chủ, tập trung vào các trung tâm nghiên cứu, nhóm nghiên cứu mạnh, thu hút các nhà khoa học trẻ và hợp tác quốc tế thay vì chỉ chú trọng tăng số lượng sinh viên.
Nhà trường được quyền tự chủ trong việc phân bổ nguồn lực cho các dự án nghiên cứu, quyết định các lĩnh vực nghiên cứu ưu tiên, và tuyển dụng các nhà khoa học mà không cần chờ phê duyệt từ cơ quan quản lý cấp trên. Thay vì phụ thuộc vào học phí, trường tìm kiếm nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp, hoặc chính phủ cho các dự án nghiên cứu. Tận dụng thế mạnh nghiên cứu để đóng góp cho cộng đồng, như phát triển các giải pháp nông nghiệp bền vững hoặc công nghệ xử lý môi trường. Ngoài ra, dựa trên thế mạnh nghiên cứu, trường xây dựng các chương trình đào tạo liên ngành, tích hợp nghiên cứu khoa học vào giảng dạy”, thầy Quang chia sẻ.
Một số ý kiến cho rằng, cần thiết phải xây dựng cách tiếp cận mới để đánh giá mức độ tự chủ của cơ sở giáo dục đại học. Theo thầy Đức, việc đánh giá mức độ tự chủ phải dựa trên quy hoạch tổng thể, rà soát lại vai trò và nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao cho các trường. Từ đó, Nhà nước có thể thực hiện cơ chế giao nhiệm vụ, đặt hàng đào tạo, đồng thời sắp xếp hệ thống trường đại học theo hướng phát huy đúng thế mạnh riêng của từng đơn vị.
Trách nhiệm đi kèm của mỗi trường đại học là bảo đảm hoàn thành đúng những nhiệm vụ được giao, đồng thời phải giải trình với xã hội về chất lượng đào tạo, nghiên cứu và đóng góp cho sự phát triển - “đây là những tiêu chí phản ánh bản chất của tự chủ đại học, thay vì chỉ dừng ở khả năng tự chủ tài chính”, thầy Đức chia sẻ.
Còn theo thầy Quang, để xây dựng một cách tiếp cận mới nhằm đánh giá mức độ tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học mà không dựa vào mức độ tự chủ tài chính, cần thiết lập một hệ thống tiêu chí đa chiều, phản ánh toàn diện năng lực và hiệu quả hoạt động của cơ sở giáo dục đại học.
Trong đó, cần xem xét tự chủ trên nhiều khía cạnh (về học thuật, tổ chức, nhân sự, quản trị, và tác động xã hội). Cách tiếp cận này nên sử dụng một bộ tiêu chí đánh giá (định tính và định lượng), kết hợp các chỉ số đo lường cụ thể (như số lượng công trình nghiên cứu, bài báo quốc tế, bằng sáng chế, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm,…) và các đánh giá định tính (như mức độ linh hoạt trong quản lý hoặc sự đổi mới trong chương trình đào tạo,..).
Đề xuất về cách triển khai, thầy Quang cho rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo cần ban hành hướng dẫn chi tiết về các tiêu chí đánh giá, kèm theo công cụ đo lường (chỉ số, báo cáo, khảo sát). Đồng thời, hỗ trợ các trường đại học nâng cao năng lực quản lý và tự chủ thông qua các chương trình đào tạo, hội thảo.
Hơn nữa, cần thiết phải thiết lập hệ thống đánh giá độc lập để đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải trình. Ngoài ra, đối với những vùng khó khăn, cần hỗ trợ (về chính sách, nguồn lực) cho các trường để phát huy tự chủ.