Nguồn thu NCKH năm 2024 của Trường ĐH Sư phạm TP.HCM tăng vọt, gấp 7.5 lần so với năm trước

03/09/2025 06:35
An Vy
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Tỷ trọng thu từ KHCN năm 2024 của trường đạt mức 5%, trong đó nguồn thu từ khoa học và công nghệ là 16 tỷ đồng trên tổng nguồn thu là 678 tỷ đồng.

Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT (gọi là Thông tư 01) về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ sở để thực hiện quy hoạch, sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục đại học; đánh giá và giám sát các điều kiện đảm bảo chất lượng, việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học theo quy định của pháp luật.

Theo quy định, các cơ sở giáo dục đại học phải chốt số liệu vào ngày 31 tháng 12 hằng năm; đối với số liệu về tài chính, thời điểm chốt số liệu là ngày 31 tháng 3 của năm tiếp theo.

Thời gian qua, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được phản ánh của phụ huynh liên quan đến việc Báo cáo công khai năm học 2024-2025/Báo cáo thường niên năm 2024 của Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh chưa được nhà trường công khai trên website.

Hiện Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn là Hiệu trưởng nhà trường; Tiến sĩ Nguyễn Thị Minh Hồng là Chủ tịch Hội đồng trường.

Để tìm hiểu rõ hơn về việc đáp ứng các tiêu chuẩn, tiêu chí tại Thông tư 01, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam gửi câu hỏi tới Nhà trường và đã nhận được chia sẻ của Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

dhsp-hcm.jpg
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh tọa lạc tại số 280 An Dương Vương, phường Chợ Quán, Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Website nhà trường.

Ngày 25/7/2025, khi truy cập vào mục “Ba công khai” trên website Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh tại địa chỉ https://hcmue.edu.vn/vi/gioi-thieu/ba-cong-khai, phóng viên thấy văn bản công khai gần nhất là của năm học 2023-2024, chưa có báo cáo thường niên/ba công khai năm học 2024-2025 theo quy định.

Trong nội dung trả lời Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 20/8/2025, nhà trường cho biết: “Đến thời điểm hiện tại, nhà trường đã cập nhật báo cáo công khai trên cổng thông tin điện tử của đơn vị theo quy định. Ngay sau khi tiếp nhận thông tin của Tạp chí, chúng tôi đã nhanh chóng khắc phục và đảm bảo các yêu cầu cơ bản”.

ba-cong-khai-dhsp-hcm.jpg
Sau khi nhận được phản ánh từ Tạp chí, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã đăng tải Báo cáo thường niên năm 2024 trong mục Ba công khai năm học 2024-2025 lên website. Ảnh chụp màn hình.

Nhiều khối ngành không có giảng viên chức danh giáo sư

Dựa theo bảng Các chỉ số đánh giá về đội ngũ giảng viên toàn thời gian nêu trong Báo cáo thường niên năm 2024 của Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh do Giáo sư, Tiến sĩ Huỳnh Văn Sơn ký ngày 27/6/2025, tỷ lệ giảng viên cơ hữu trong độ tuổi lao động đạt 98,3%; tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ của trường đạt 44,42%, vượt tỷ lệ theo Chuẩn.

Tỷ lệ giảng viên toàn thời gian có trình độ tiến sĩ theo điểm b, tiêu chí 2.3, Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học quy định: “Không thấp hơn 40% và từ năm 2030 không thấp hơn 50% đối với cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ”.

Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh hiện có 529 giảng viên toàn thời gian, gồm 2 giáo sư, 34 phó giáo sư, 199 tiến sĩ, 276 thạc sĩ và 18 giảng viên trình độ đại học. Trong đó, có 9 phó giáo sư không là giảng viên cơ hữu trong độ tuổi lao động.

Bên cạnh đó, hai giáo sư của trường thuộc các lĩnh vực: Khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên (khối ngành I) và Dịch vụ xã hội (khối ngành VII). Ở các khối ngành IV và V, nhà trường chưa có giảng viên chức danh giáo sư.

screenshot-2025-08-26-105240.png
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh hiện có hai giáo sư, lần lượt thuộc lĩnh vực Khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên (khối ngành I) và lĩnh vực Dịch vụ xã hội (khối ngành VII).

Chia sẻ về khó khăn trong việc khuyến khích giảng viên trình độ tiến sĩ xét chức danh giáo sư, phó giáo sư đặc biệt ở khối ngành IV và V, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: “Tính đến hết tháng 12/2024, nhà trường có tổng 27 giáo sư và phó giáo sư là giảng viên cơ hữu trong độ tuổi lao động. Trong đó, khối ngành IV và khối ngành V có tổng cộng 7 phó giáo sư, phân bổ ở các ngành: Vật lý, Hoá học, Toán học, Sinh học…

Từ năm 2019, việc xét công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư được thực hiện theo Quyết định 37/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Ban hành quy định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư; thủ tục xét hủy bỏ công nhận chức danh và miễn nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư. Căn cứ theo định hướng và chiến lược phát triển của trường, việc phát triển các giảng viên đạt chức danh giáo sư, phó giáo sư đã có kế hoạch cụ thể và được triển khai theo quy định nội bộ của trường”.

Diện tích đất/người học "năm 2030 mới tính"

Theo bảng Các chỉ số đánh giá về cơ sở vật chất, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh hiện có tổng diện tích đất là 151.871,8 m² và tổng diện tích sàn xây dựng là 123.077,6 m², được phân bổ tại trụ sở chính ở Thành phố Hồ Chí Minh cùng hai phân hiệu ở tỉnh Long An (cũ) và tỉnh Gia Lai.

Tiêu chí 3.1. Từ năm 2030, diện tích đất (có hệ số theo vị trí khuôn viên) tính bình quân trên một người học chính quy quy đổi theo trình độ và lĩnh vực đào tạo không nhỏ hơn 25 m².

Tiêu chí 3.2. Diện tích sàn xây dựng phục vụ đào tạo trên số người học chính quy quy đổi theo trình độ và lĩnh vực đào tạo không nhỏ hơn 2,8 m²; ít nhất 70% giảng viên toàn thời gian được bố trí chỗ làm việc riêng biệt.

Tỷ lệ giảng viên toàn thời gian có chỗ làm việc riêng biệt của nhà trường là 99,8%; diện tích sàn/người học đạt 3,61 m². Tuy nhiên, về diện tích đất/người học, báo cáo thường niên năm 2024 của Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh không đề cập đến nội dung này, chỉ ghi là “năm 2030 mới tính”.

csvc-su-pham-hcm.png
Các chỉ số đánh giá về cơ sở vật chất được nêu trong Báo cáo thường niên năm 2024 của Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh chụp màn hình.

Khi được hỏi về tình hình cơ sở vật chất hiện nay tại nhà trường như thế nào và lộ trình thực hiện để đạt Chuẩn ra sao, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh giải đáp: “Đối với tiêu chí diện tích làm việc riêng biệt dành cho giảng viên toàn thời gian, trường đang tính mật độ diện tích làm việc là 10 m² cho một giảng viên. Hiện tại, tỷ lệ đạt tiêu chí này là 99,8%. Diện tích được bố trí tập trung tại cơ sở chính địa chỉ 280 An Dương Vương, phường Chợ Quán, Thành phố Hồ Chí Minh; Viện Nghiên cứu giáo dục; Trung tâm Thuận An”.

Nguồn thu từ khoa học và công nghệ năm 2024 cao gấp 7,5 lần so với năm trước

Tiêu chí 6.1. Tỷ trọng thu từ các hoạt động khoa học và công nghệ trên tổng thu của cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ (có tính trọng số theo lĩnh vực), tính trung bình trong 3 năm gần nhất không thấp hơn 5%.

Về kết quả hoạt động khoa học và công nghệ, năm 2024, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh có 116 đề tài nghiên cứu khoa học với kinh phí thực hiện trong năm là 13.388,5 triệu đồng (tức gần 13,39 tỷ đồng). Trong đó có 4 đề tài cấp Nhà nước; 19 đề tài cấp Bộ, tỉnh; 92 đề tài cấp cơ sở và 1 đề tài hợp tác doanh nghiệp.

Ngoài ra, trường có 344 bài báo khoa học được Hội đồng Giáo sư nhà nước công nhận không nằm trong danh mục WoS, Scopus và bằng độc quyền giải pháp hữu ích. Tổng số công bố WoS, Scopus ở tất cả các lĩnh vực là 190 bài báo; 210 sách chuyên khảo, tác phẩm nghệ thuật và thành tích thể dục thể thao đạt giải thưởng quốc gia, quốc tế.

khcn.png
Các chỉ số đánh giá về hoạt động khoa học và công nghệ năm 2024 của Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh chụp màn hình.

Bên cạnh đó, tỷ trọng thu từ khoa học công nghệ năm 2024 của nhà trường đạt mức 5%, nguồn thu từ khoa học và công nghệ là 16 tỷ đồng trên tổng nguồn thu là 678 tỷ đồng.

Còn theo báo cáo ba công khai năm học 2023-2024, tổng nguồn thu của trường là 588,1 tỷ đồng; nguồn thu từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ chỉ đạt 2,122 tỷ đồng. Tức nguồn thu từ khoa học công nghệ năm 2024 cao gấp 7,5 lần so với năm 2023.

nguon-thu.png
Nguồn thu từ khoa học và công nghệ bao gồm hợp đồng, tài trợ từ ngân sách Nhà nước, tài trợ từ bên ngoài và thu khác đạt 16 tỷ đồng. Ảnh chụp màn hình.

Về các hoạt động tài chính khác, nguồn thu từ giáo dục và đào tạo là 575 tỷ đồng. Trong đó, thu từ học phí chiếm 228 tỷ đồng, nguồn thu khác chiếm 269 tỷ đồng, còn lại là thu từ hợp đồng, tài trợ từ ngân sách Nhà nước.

Theo Thông tư 01/2024/TT-BGDDT, tỉ trọng thu từ các hoạt động khoa học và công nghệ (nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo và chuyển giao tri thức) trên tổng thu của cơ sở giáo dục đại học tính trung bình trong 3 năm gần nhất được tính như sau:

T = [R1(n)/R(n) + R1(n-1)/R(n-1) + R1(n-2)/R(n-2)]/3 x KLV

Trong đó:

- R(n) là tổng thu hoạt động trong năm báo cáo (n) từ các hoạt động thường xuyên (bao gồm cả ngân sách Nhà nước, nhà đầu tư hỗ trợ) và thực hiện nhiệm vụ không thường xuyên, không bao gồm kinh phí đầu tư do Nhà nước hoặc nhà đầu tư cấp; R(n-1), R(n-2) là tổng thu hoạt động của 2 năm trước liền kề;

- R1 (n) là phần thu từ nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, chuyển giao tri thức (đề tài, dự án nghiên cứu, hợp đồng tư vấn, chuyển giao tri thức) quy đổi theo lĩnh vực đào tạo của năm báo cáo (n); R1(n-1), R1(n-2) là phần thu tương ứng của 2 năm trước liền kề;

- KLV là hệ số quy đổi kinh phí theo cơ cấu lĩnh vực đào tạo của cơ sở GDĐH tại năm báo cáo (n):

KLV = Σ [M(i)/N] x KTC(i)

- M(i) là số người học quy đổi theo hình thức và trình độ đào tạo của lĩnh vực đào tạo (i) tại năm báo cáo (n):

M(i) = M1(i) x 1,0 + M2(i) x 0,8 + M3(i) x 0,5 + M4(i) x 1,5 + M5(i) x 2,0

- M1(i), M2(i), M3(i), M4(i), M5(i) lần lượt là số SVĐH chính quy, vừa làm vừa học, đào tạo từ xa, số HVCH và số NCS của lĩnh vực đào tạo (i) trong năm báo cáo (n);

- N là tổng số người học quy đổi theo hình thức đào tạo và trình độ đào tạo của cơ sở GDĐH tại năm báo cáo (n):

N = Σ M(i)

- KTC(i) là hệ số kinh phí nghiên cứu và đổi mới sáng tạo quy đổi cho lĩnh vực đào tạo (i), được quy định tại Mục 3 ở cuối Phần này.

An Vy