Đầu tư đào tạo ngành STEM cần chiến lược dài hạn, lộ trình phát triển phù hợp

26/01/2025 06:45
Hồng Linh
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Cần đầu tư phòng thí nghiệm, hệ thống công nghệ hiện đại và phát triển các chương trình học mang tính quốc tế hóa để nâng cao hiệu quả đào tạo ngành STEM.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1705/QĐ-TTg ngày 31/12/2024 phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, đối với giáo dục đại học, chiến lược có đặt ra mục tiêu, tỷ trọng quy mô đào tạo các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán (STEM) đạt 35%.

Theo lãnh đạo một số trường đại học, việc đầu tư đào tạo ngành STEM cần những chiến lược đồng bộ và sự phối hợp của nhiều bên.

Số sinh viên đại học ở các ngành STEM còn thấp

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Gia Như - Hiệu trưởng Trường Công nghệ và Kỹ thuật, Đại học Duy Tân cho biết, khi tăng tỷ trọng đào tạo các ngành STEM , Việt Nam sẽ có thêm nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, công nghệ tự động hóa và khoa học vật liệu.

Điều này giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực trong nước, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường lao động toàn cầu và thúc đẩy các ngành kinh tế mới nổi.

Ngoài ra, sự tập trung vào STEM cũng sẽ tạo ra lực đẩy lớn cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp công nghệ và startup, từ đó đóng góp vào tăng trưởng kinh tế bền vững.

PGS TS Nguyễn Gia Như.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Gia Như - Hiệu trưởng Trường Công nghệ và Kỹ thuật, Đại học Duy Tân. Ảnh: NVCC.

Chia sẻ về những thuận lợi và khó khăn trong việc đào tạo STEM, thầy Như bày tỏ: “Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Quyết định số 1705/QĐ-TTg ngày 31/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ có tính định hướng chiến lược rõ ràng, đặt khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển đất nước, góp phần định hướng và tạo động lực lớn cho sự phát triển của các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi như sự hỗ trợ từ chính sách, xu hướng hội nhập quốc tế, và sự quan tâm ngày càng cao của doanh nghiệp đối với nguồn nhân lực STEM, vẫn còn những thách thức đáng kể.

Đó là sự thiếu hụt giảng viên trình độ cao trong các lĩnh vực công nghệ mới, sự chênh lệch về điều kiện đào tạo giữa các khu vực. Hơn nữa, thực trạng này còn xuất phát từ phương pháp giảng dạy các môn Khoa học tự nhiên tại các trường trung học phổ thông hiện nay chưa được đổi mới, còn nặng về lý thuyết, chưa đi vào thực tiễn.

Điều này khiến nhiều em ngần ngại chọn học và thi các môn học này. Hiện nay, số sinh viên đại học ở các lĩnh vực STEM đạt 55 người/vạn dân, thấp hơn nhiều nước trong khu vực".

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thanh Tùng - Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học (Đại học Huế), việc đào tạo STEM ở Việt Nam đang có một số thuận lợi cơ bản như sau:

Nhu cầu nguồn nhân lực của xã hội cao: Các ngành STEM ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Các doanh nghiệp đang "khát" nguồn nhân lực STEM vì sự thiếu hụt trên toàn cầu.

Chính sách đầu tư của Chính phủ và doanh nghiệp: Nhà nước, các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp đang khuyến khích và thúc đẩy việc đào tạo nguồn nhân lực STEM thông qua các chính sách, chương trình học bổng, và các sáng kiến hợp tác quốc tế.

Các trường đại học, cơ sở đào tạo cũng ngày càng chú trọng xây dựng các chương trình giảng dạy chuyên sâu về các ngành STEM để đáp ứng nhu cầu học tập của người học cũng như đáp ứng cho thị trường lao động hiện nay.

Thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề mới: Thông qua STEM, nhiều ngành mới đã hình thành và phát triển, nhất là các ngành mang tính chất liên ngành, xuyên ngành như: khoa học dữ liệu và trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, blockchain, công nghệ sinh học, tin sinh học… tạo cơ hội việc làm lớn cho người học STEM và thúc đẩy nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong những lĩnh vực này.

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, việc đào tạo các ngành STEM ở Việt Nam cũng đang gặp phải một số khó khăn, thách thức.

Việt Nam là nước có trình độ khoa học chưa phát triển so với các nước tiên tiến của thế giới, kinh nghiệm cũng như đội ngũ chất lượng đào tạo STEM còn thiếu hụt. Thiết bị, phòng thí nghiệm phục vụ cho dạy học các ngành STEM, dẫn đến việc chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.

Ngoài ra, nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục STEM trong đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên, học sinh, sinh viên còn chưa cao, dẫn đến tâm lí đối phó, chưa có tính hệ thống, bài bản trong việc dạy học.

Bên cạnh đó, các sân chơi mang tầm cỡ từ trung ương xuống địa phương liên quan đến STEM còn chưa nhiều, chưa tạo thành phong trào rộng lớn, làm động lực mạnh mẽ cho sự phát triển giáo dục STEM.

Đặc biệt, học sinh ở các khu vực khó khăn ít có cơ hội tiếp cận với các chương trình STEM, nhiều gia đình không đủ khả năng chi trả cho học sinh, sinh viên theo học các khóa học chuyên sâu.

Cùng bàn về vấn đề này, lãnh đạo Trường Đại học Công nghệ thông tin (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) chia sẻ: “Học sinh trung học phổ thông Việt Nam được đánh giá cao về các môn toán, khoa học tự nhiên. Ngoài ra, học sinh nam và nữ được học cùng nhau và cùng một chương trình, góp phần tạo điều kiện cho các học sinh nữ cũng yêu thích và nỗ lực với các môn học STEM, từ đó mở ra cơ hội lựa chọn ngành STEM trong tương lai. Đây là thuận lợi đối với việc xây dựng hệ giống giáo dục STEM ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, khó khăn trong việc đào tạo các ngành STEM là đòi hỏi lớn về cơ sở vật chất cho thực hành, thí nghiệm nên chi phí đào tạo cũng sẽ cao hơn các ngành học khác”.

dsc09761.jpg
Ảnh minh họa: Website Trường Đại học Công nghệ thông tin (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh).

Xây dựng chiến lược tổng thể, phối hợp nhiều bên

Để đạt được mục tiêu tăng tỷ trọng đào tạo các ngành STEM lên 35% trong quy mô giáo dục đại học, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Gia Như cho rằng, cần có chiến lược tổng thể với sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp, và các trường đại học.

Xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển STEM bền vững: Chính phủ cần có các chính sách ưu tiên đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phòng thí nghiệm hiện đại, và các chương trình học bổng dành riêng cho sinh viên STEM. Bên cạnh đó, cần có các cơ chế hỗ trợ tài chính để khuyến khích các trường đại học và doanh nghiệp hợp tác phát triển chương trình đào tạo và nghiên cứu.

Cải thiện chương trình đào tạo: Các trường đại học cần thường xuyên cập nhật chương trình giảng dạy để theo kịp các xu hướng công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, và năng lượng tái tạo. Việc áp dụng các phương pháp học tập sáng tạo như học theo dự án và học dựa trên thực tiễn là rất cần thiết để nâng cao chất lượng giảng dạy.

Tăng cường hợp tác với doanh nghiệp: Các trường đại học cần xây dựng mối quan hệ đối tác với doanh nghiệp để thiết kế chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường lao động. Điều này cũng giúp mở rộng cơ hội thực tập, đào tạo kỹ năng và việc làm cho sinh viên.

Thu hút và phát triển đội ngũ giảng viên chất lượng cao: Để đảm bảo chất lượng giảng dạy khi tăng quy mô đào tạo, cần có các chính sách thu hút và đào tạo giảng viên trong các lĩnh vực STEM. Đầu tư vào nâng cao năng lực giảng dạy và nghiên cứu của đội ngũ này là yếu tố then chốt.

Đẩy mạnh truyền thông và giáo dục STEM từ cấp học dưới: Cần xây dựng các chương trình hướng nghiệp, trải nghiệm STEM cho học sinh phổ thông nhằm khơi dậy niềm đam mê khoa học và công nghệ từ sớm. Việc này giúp gia tăng nguồn tuyển sinh có chất lượng cho các ngành STEM ở bậc đại học.

Đối với các trường đại học, để vừa tăng quy mô đào tạo vừa đảm bảo chất lượng giảng dạy, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Gia Như chia sẻ: "Cần tập trung đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở vật chất như phòng thí nghiệm, không gian học tập sáng tạo, và hệ thống công nghệ hiện đại.

Đồng thời, việc phát triển các chương trình học mang tính quốc tế hóa là rất quan trọng, thông qua việc tích hợp các chứng chỉ và tiêu chuẩn quốc tế để sinh viên có thể cạnh tranh hiệu quả trên thị trường lao động toàn cầu.

Bên cạnh đó, nhà trường cần chú trọng đào tạo kỹ năng mềm cho sinh viên, giúp các em phát triển khả năng giao tiếp, làm việc nhóm và tư duy phản biện, những yếu tố cần thiết trong môi trường làm việc hiện đại.

Đặc biệt, cần xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo bằng cách thành lập các trung tâm nghiên cứu và vườn ươm khởi nghiệp, tạo điều kiện để sinh viên hiện thực hóa các ý tưởng và sản phẩm sáng tạo".

Ảnh minh họa: Website Đại học Duy Tân.

Ảnh minh họa: Website Đại học Duy Tân.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thanh Tùng nhấn mạnh: "Đầu tư cho STEM là chiến lược dài hạn, cần có lộ trình phát triển phù hợp và tính đến sự dung nạp của thị trường lao động. Hiện nay, tỉ lệ học sinh, sinh viên theo học các ngành STEM rất ít, đây chính là hệ quả một thời gian dài chúng ta chưa chú trọng và chưa đầu tư đúng mức.

Với các chính sách đầu tư của Nhà nước, trong thời gian tới, tôi tin tưởng rằng, số lượng người học cũng như chất lượng đào tạo ngành STEM sẽ tăng lên đáng kể, nhưng trước mắt vẫn chưa thể đáp ứng được số lượng và yêu cầu của thị trường lao động, mà cần phải có thời gian để đào tạo, nâng cao chất lượng.

Việc tăng tỉ trọng quy mô đào tạo STEM phải có lộ trình, tính đến số lượng học sinh đang học ở cấp dưới để đảm bảo việc tăng quy mô không ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo. Đồng thời, cần có sự đầu tư đồng bộ từ chính sách, cơ sở hạ tầng, và đổi mới phương pháp giảng dạy, nhằm đảm bảo lực lượng lao động không chỉ đủ về số lượng mà còn mạnh về chất lượng"

Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học (Đại học Huế) chia sẻ, với mục tiêu đến năm 2045 tỉ trọng quy mô đào tạo các ngành STEM đạt 35% là một thách thức không nhỏ trong bối cảnh học sinh các cấp chưa chú trọng vào các ngành STEM.

Thầy Tùng nhấn mạnh, truyền thông và định hướng cho cộng đồng có thể xem là một trong những vấn đề cần làm đầu tiên để xã hội, nhất là các bậc phụ huynh nhận thức được tầm quan trọng của STEM, định hướng và có những đầu tư phù hợp cho con em mình theo học các ngành STEM. Bên cạnh đó, cần có các sân chơi như: ngày hội STEM, trại hè khoa học, các cuộc thi sáng tạo,… để học sinh tham gia và tạo sự đam mê, gắn kết, hiểu biết sâu rộng về các ngành này.

Phải nâng cao chất lượng giáo dục các ngành STEM thông qua đổi mới chương trình đào tạo tạo ra một cách hệ thống đào tạo STEM có tính thống nhất, đồng bộ cao; nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông, giảng viên trong giáo dục và đào tạo các ngành STEM, khuyến khích các chuyên gia trong ngành tham gia giảng dạy hoặc cố vấn cho các trường học.

Cùng với đó, cần đầu tư cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, tài liệu học tập cho các trường phổ thông và đại học đảm bảo đồng bộ và đáp ứng được yêu cầu của giảng dạy – học tập bên cạnh áp dụng công nghệ số vào quá trình dạy học như sử dụng các công cụ như thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR) và mô phỏng để tăng cường trải nghiệm học tập.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thanh Tùng nói thêm, về phía trường đại học cần nắm rõ được nhu cầu của người học, số lượng người học định hướng theo các ngành STEM của thời gian đoạn, thời điểm để đưa ra chỉ tiêu tuyển sinh phù hợp, tránh việc tăng quy mô tuyển sinh đột ngột dẫn đến thiếu hụt người học hoặc tuyển người học không đảm bảo chất lượng.

Theo chia sẻ của lãnh đạo Trường Đại học Công nghệ thông tin (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) nhà trường cũng triển khai nhiều hoạt động nhằm thu hút người học như thưởng cho sinh viên có thành tích học tập, nghiên cứu tốt đặc biệt là sinh viên nữ; cấp học bổng tuyển sinh để thu hút học sinh đạt giải học sinh giỏi quốc gia, và học sinh có các giải thưởng xuất sắc khác; tổ chức lớp học lập trình và chương trình tham quan trường cho cho học sinh cấp ba để giúp các em sớm khám phá ý nghĩa, sự hấp dẫn và từ đó yêu thích ngành học STEM của trường.

Để việc tăng quy mô đào tạo ngành STEM ở Việt Nam được diễn thuận lợi, theo vị lãnh đạo này, nghiên cứu cho thấy trẻ em đã có định hướng chọn ngành nghề từ rất sớm khoảng 8-9 tuổi. Do đó để khuyến khích học sinh chọn các ngành STEM cần cho trẻ tiếp cận và khơi gợi niềm yêu thích những môn học STEM từ sớm. Đồng thời có giải pháp để giảm định kiến về giới trong định hướng ngành nghề của phụ huynh, thầy cô cho trẻ em gái.

Các trường đại học cần được đầu tư thêm cơ sở vật chất dạy thực hành, thí nghiệm; tạo điều kiện phát triển nghiên cứu khoa học, cần được đầu tư thêm cơ sở vật chất dạy thực hành, thí nghiệm; được tạo điều kiện phát triển nghiên cứu khoa học.

Hồng Linh