Khi Bộ Giáo dục cầm tay chỉ việc
Ngày 18/12/2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Công văn 5512/BGDĐT-GDTrH về việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục của nhà trường. [1]
Theo đó, Bộ Giáo dục yêu cầu xây dựng Kế hoạch giáo dục của nhà trường bao gồm 3 nội dung: xây dựng Kế hoạch thời gian thực hiện chương trình (phân phối chương trình); xây dựng Kế hoạch giáo dục của tổ chuyên môn; xây dựng Kế hoạch giáo dục của giáo viên và Kế hoạch bài dạy (giáo án).
Đối với Kế hoạch giáo dục của giáo viên và Kế hoạch bài dạy (giáo án), Bộ Giáo dục chỉ đạo: căn cứ vào Kế hoạch dạy học các môn học của tổ chuyên môn, giáo viên được phân công dạy học môn học ở các khối lớp xây dựng Kế hoạch giáo dục của giáo viên trong năm học (theo khung Kế hoạch giáo dục của giáo viên tại Phụ lục III); trên cơ sở đó xây dựng các Kế hoạch bài dạy để tổ chức dạy học (theo khung Kế hoạch bài dạy tại Phụ lục IV).
Việc kiểm tra, đánh giá thường xuyên được thực hiện trong quá trình tổ chức các hoạt động học được thiết kế trong Kế hoạch bài dạy thông qua các hình thức: hỏi - đáp, viết, thực hành, thí nghiệm, thuyết trình, sản phẩm học tập. Đối với mỗi hình thức, khi đánh giá bằng điểm số phải thông báo trước cho học sinh về các tiêu chí đánh giá và định hướng cho học sinh tự học; chú trọng đánh giá bằng nhận xét quá trình và kết quả thực hiện của học sinh theo yêu cầu của câu hỏi, bài tập, bài thực hành, thí nghiệm, thuyết trình, sản phẩm học tập đã được nêu cụ thể trong Kế hoạch bài dạy.
Trong các trường hợp cần thiết, việc đánh giá bài dạy được thực hiện theo các tiêu chí đánh giá Kế hoạch bài dạy và hoạt động dạy học đã được thực hiện (theo mẫu Phiếu đánh giá bài dạy tại Phụ lục V).
Công văn 5512/BGDĐT-GDTrH cũng không có một dòng nào ghi chú Kế hoạch bài dạy (giáo án) ở Phụ lục IV chỉ mang tính tham khảo nên giáo viên trên cả nước phải thay đổi mẫu giáo án cho đúng quy định.
(Ảnh minh hoạ: Hoatieu.vn) |
Soạn giáo án theo khuôn mẫu là đi ngược với tinh thần khai phóng của giáo viên
Thứ nhất, tên gọi Kế hoạch giáo dục của giáo viên thực ra là Khung phân phối chương trình. Từ năm học 2007-2008, Bộ Giáo dục chỉ ban hành Khung phân phối chương trình quy định thời lượng cho từng phần Chương trình (chương, bài học, mô-đun, chủ đề, ...), trong đó quy định thời lượng luyện tập, bài tập, ôn tập, thí nghiệm, thực hành và kiểm tra định kỳ. [2]
Nghĩa là, Khung phân phối chương trình chỉ có 2 nội dung: tên bài dạy và số tiết theo phân phối chương trình.
Còn khung Kế hoạch giáo dục của giáo viên tại Phụ lục III của Công văn 5512/BGDĐT-GDTrH gồm: phân phối chương trình (bài học; số tiết; thời điểm; thiết bị dạy học; địa điểm dạy học);
Chuyên đề lựa chọn (đối với cấp trung học phổ thông) gồm: chuyên đề; số tiết; thời điểm; thiết bị dạy học; địa điểm dạy học;
Nhiệm vụ khác (nếu có): (bồi dưỡng học sinh giỏi; tổ chức hoạt động giáo dục...)
Lẽ ra, Kế hoạch giáo dục của giáo viên chỉ cần theo mẫu Khung phân phối chương trình và thêm phần ghi chú là đủ.
Thứ hai, Kế hoạch bài dạy là giáo án lên lớp của giáo viên nhưng không hiểu vì sao Bộ Giáo dục lại thay đổi tên gọi?
Từ năm học 2019-2020 trở về trước, một giáo án được thể hiện qua 5 bước: mục tiêu; phương pháp; chuẩn bị; tiến trình lên lớp; củng cố; dặn dò. [3]
Nhưng trong phần Phụ lục IV Khung kế hoạch bài dạy, Bộ Giáo dục đưa ra mẫu giáo án mới. Cụ thể, mỗi bài học được hướng dẫn triển khai 4 hoạt động: 1- xác định vấn đề/nhiệm vụ học tập/mở đầu; 2- hình thành kiến thức mới/giải quyết vấn đề/thực thi nhiệm vụ; 3- luyện tập; 4- vận dụng.
Như thế, để soạn một tiết dạy cho bậc phổ thông thì giáo án có độ dài từ 5-7 trang (hoặc hơn thế nữa). Các môn Toán, Ngữ văn, Ngoại ngữ, Vật lí, Hóa học… giáo viên phải oằn mình soạn bài rất vất vả.
Bên cạnh đó, quy định chi tiết mỗi giờ dạy gồm 4 hoạt động, mỗi hoạt động phải có 4 bước (mục tiêu; nội dung; sản phẩm; tổ chức thực hiện) là phi thực tế, không có cơ sở khoa học nào cả. Bởi giáo án môn Khoa học tự nhiên khác với môn Khoa học xã hội, càng khác xa với các môn mang tính đặc thù như Thể dục, Âm nhạc, Mĩ thuật.
Ngoài ra, phần Ghi chú (Phụ lục IV) còn hướng dẫn Kế hoạch bài dạy rất chi li, như: “Trong Kế hoạch bài dạy không cần nêu cụ thể lời nói của giáo viên, học sinh mà tập trung mô tả rõ hoạt động cụ thể của giáo viên: giáo viên giao nhiệm vụ/yêu cầu/quan sát/theo dõi/hướng dẫn/nhận xét/gợi ý/kiểm tra/đánh giá; học sinh thực hiện/đọc/nghe/nhìn/viết/trình bày/báo cáo/thí nghiệm/thực hành/”.
Quy định Kế hoạch bài dạy không cần nêu cụ thể lời nói của giáo viên, học sinh cũng không có cơ sở. Ví dụ, giáo viên dạy bài “Tấm Cám” (lớp 10) có thể phát vấn bằng hệ thống câu hỏi như sau:
Vì sao nhà vua tới trò chuyện thân mật với Tấm, thích Tấm?; Vì sao Tấm không bị mẹ con con Cám phát hiện là đã đến dự tiệc, đã gặp nhà vua?; Vì sao Cám không được nhà vua đoái hoài?; Vì sao Tấm bị mẹ con con Cám giết?
Như thế để thấy rằng, việc thay đổi tên gọi từ giáo án đến Kế hoạch bài dạy là dài dòng, rối rắm, không phù hợp với cách gọi quen thuộc của giáo viên, học sinh bấy lâu nay.
Hơn nữa, giáo viên soạn giáo án theo mẫu chủ yếu là để đối phó với tổ chuyên môn, Ban Giám hiệu, Phòng giáo dục, Sở giáo dục. Còn lãnh đạo khi kiểm tra giáo án thì xem giáo viên soạn có đúng mẫu Phụ lục IV Công văn 5512 hay không - là cách làm hình thức, không thể lượng hóa được chất lượng chuyên môn.
Cho dù lãnh đạo có đi dự giờ thăm lớp thì cùng lắm cùng lắm cũng chỉ đánh giá qua một hai tiết dạy, còn chuyện giáo viên dạy trên lớp thế nào thì không ai giám sát nổi.
Thế mà nhiều lãnh đạo cứ chăm chăm soi giáo viên có soạn giáo án đúng theo mẫu quy định hay không. Trong khi đó, ai cũng biết rằng, giáo án trường công khác với trường tư; giáo án lớp yếu khác với lớp giỏi; giáo án vùng khó khăn khác với vùng đồng bằng…
Cá nhân người viết cho rằng, giáo viên có thâm niên dạy học trên 10 năm, việc thiết kế một giáo án đôi khi chỉ cần những cái gạch ngang đầu dòng ghi nội dung chính, ghi chú, không cần phải viết lê thê nhiều trang.
Nhìn chung, một giáo án tốt đòi hỏi sự chủ động, sáng tạo của giáo viên viên trong việc nghiên cứu bài giảng, tìm tòi tài liệu, học tập kinh nghiệm từ đồng nghiệp… chứ không phải “đồng phục” được một ai đó làm cho kiểu mẫu đưa sẵn.
Giáo viên đã qua 4 năm học đại học sư phạm (hoặc học lên sau đại học), có nhiều năm đứng lớp, chắc chắn sẽ nắm vững cách thức soạn một giáo án sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, không phải cầm tay chỉ việc.
Có thể khẳng định, việc soạn giáo án còn theo khuôn mẫu tức là đi ngược với tinh thần khai phóng của giáo viên, thì khó có chuyện “học thật, thi thật, nhân tài thật mà Thủ tướng Phạm Minh Chính đã phát biểu tại trụ sở Chính phủ ngày 6/5/2021 trong cuộc làm việc với Bộ Giáo dục và Đào tạo về những vấn đề tồn đọng, cấp bách cần giải quyết, các đề xuất, kiến nghị của ngành.
Tài liệu tham khảo:
[1] //thuvienphapluat.vn/cong-van/Giao-duc/Cong-van-5512-BGDDT-GDTrH-2020-xay-dung-va-to-chuc-thuc-hien-ke-hoach-giao-duc-cua-nha-truong-462988.aspx
[2] //gdtrunghoc.hcm.edu.vn/van-ban/van-ban-so-7608-bgddt-gdtrh-ve-khung-phan-phoi-chuong-trinh-mon-hoc-vbct40999-58719.aspx
[3] //thcsphulao.pgdlacthuy.edu.vn/cong-van-2377-quy-dinh-noi-dung-hinh-thuc-giao-an-cua-giao-vien-trung-hoc.html
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.