Đừng quá chú trọng vào danh xưng "trường ĐH" hay "ĐH", hãy quan tâm tới đẳng cấp

10/12/2022 07:00
Nguyên Phương
0:00 / 0:00
0:00
GDVN-TS Lê Viết Khuyến: "Cần làm rõ trong các luật về giáo dục các khái niệm: đại học, học viện, trường đại học, theo đúng thông lệ quốc tế".

Vừa qua, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã thay mặt Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định 1512/QĐ-TTg về việc chuyển Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thành Đại học Bách khoa Hà Nội.

Như vậy, cả nước hiện có 6 đơn vị được gọi là đại học, bao gồm: Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, Đại học Thái Nguyên và Đại học Bách khoa Hà Nội.

Câu chuyện chuyển từ một trường đại học lên đại học đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của xã hội cũng như các chuyên gia giáo dục. Một lần nữa, có nhiều câu hỏi được đặt ra về mô hình đại học đa lĩnh vực tại Việt Nam.

Xoay quanh vấn đề này, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Lê Viết Khuyến – nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), hiện là Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến - Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam. (Ảnh: NP)

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến - Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam. (Ảnh: NP)

Phóng viên: Thưa ông, câu chuyện Trường Đại học Bách khoa trở thành Đại học Bách khoa được thực hiện theo đúng Luật Giáo dục Đại học. Nhưng vì sao vẫn xảy ra nhiều tranh cãi, đặc biệt liên quan đến mô hình đại học đa lĩnh vực?

Tiến sĩ Lê Viết khuyến: Chúng ta phải đi tìm hiểu từ các loại hình cơ sở giáo dục đại học. Nếu xét về cấu trúc quản trị thì thường có 4 loại hình: Đại học (University), Học viện (Academy/ Institute); Trường đại học (Senior college), Trường cao đẳng (Junior college).

Loại hình đại học mà trước giải phóng còn được gọi là Viện đại học thường được xây dựng theo cấu trúc quản lý 3 cấp, gồm: Đại học, Trường thành viên và Khoa. Trường thành viên được xây dựng theo từng lĩnh vực đào tạo như: kỹ thuật; nông nghiệp; giáo dục; khoa học sức khoẻ; kinh tế; công nghệ;… Còn Khoa được xây dựng theo từng ngành hoặc một vài ngành gần nhau. Nếu tính đến từng chuyên ngành sâu cụ thể thì còn có cấp thứ 4 là Bộ môn.

Học viện (Academy/ Institute) đào tạo theo một hoặc một vài hướng chuyên ngành, ví dụ, chỉ đi theo hướng kỹ thuật như trường bách khoa (Polytechnic), hoặc đi theo hướng giáo dục (trường sư phạm), nông nghiệp (học viện nông nghiệp),… Loại hình này cũng như loại hình đại học đều bắt buộc phải có đào tạo sau đại học.

Trường đại học (Senior college) chủ yếu đào tạo ở trình độ cử nhân, có thể đơn lĩnh vực hoặc đa lĩnh vực.

Còn nếu xét theo sứ mệnh thì thường có 3 loại hình: trường quốc gia, trường vùng và trường địa phương. Trường quốc gia có sứ mệnh đáp ứng nhân lực tầm quốc gia, và do đó thường cần phải đạt trình độ khu vực hoặc quốc tế. Trường quốc gia có thể là đại học đa lĩnh vực như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh nhưng cũng có thể là một trường chuyên ngành như Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, Học viện Hành chính Quốc gia.

Còn trường vùng là đào tạo nhân lực đáp ứng cho từng khu vực cụ thể, thường là những khu vực chưa phát triển về kinh tế. Còn trường địa phương đáp ứng nhu cầu nhân lực của từng địa phương (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương).

Theo Luật Giáo dục Đại học hiện hành, trường đại học là cơ sở giáo dục đại học đào tạo, nghiên cứu nhiều ngành. Còn đại học là cơ sở giáo dục đại học đào tạo, nghiên cứu nhiều lĩnh vực; các đơn vị cấu thành đại học cùng thống nhất thực hiện mục tiêu, sứ mạng, nhiệm vụ chung.

Và theo cơ cấu tổ chức của mô hình đại học/ trường đại học theo Luật Giáo dục Đại học 2018 thì chỉ có 2 đại học quốc gia và 3 đại học vùng được gọi là đại học. Trong khi có một số trường đa lĩnh vực thì vẫn chỉ được xem là trường đại học, ví dụ như Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Vinh,...

Trong văn bản Luật và văn bản dưới Luật, chúng ta vẫn có sự lẫn lộn giữa mô hình đại học và trường đại học.

Theo thông lệ quốc tế, đại học đa lĩnh vực là cơ sở giáo dục đại học bao gồm nhiều trường thành viên, trong đó phải có một trường khoa học cơ bản (College of Liberal Art), có từ 2 hoặc nhiều hơn các trường chuyên ngành, có một số chương trình sau đại học và có đủ năng lực để có thể cấp văn bằng cho nhiều lĩnh vực đào tạo khác nhau. Đại học đa lĩnh vực phải là một chỉnh thể thống nhất.

Trường Đại học Bách Khoa trước giờ vẫn là một trường về kỹ thuật, là trường đại học đa ngành chứ không phải đại học đa lĩnh vực. Có 3 trường trực thuộc là Trường Cơ khí, Trường Điện - điện tử, Trường Công nghệ thông tin và truyền thông, rõ ràng Cơ khí và Điện – điện tử đều thuộc khối ngành kỹ thuật, vậy tại sao lại phải tách ra thành hai trường. Mặc dù Đại học Bách khoa Hà Nội đã có mở thêm một số ngành ngoài kỹ thuật nhưng chưa đủ mạnh để xây dựng các trường thành viên.

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội trở thành Đại học Bách khoa Hà Nội giống như một kiểu “chín ép”, mà chính quy định về đại học đa lĩnh vực trong Nghị định 99/2019/NĐ-CP “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật giáo dục đại học” đã mở đường cho việc chuyển đổi này (Điều 4. Chuyển trường đại học thành đại học và thành lập trường thuộc cơ sở giáo dục đại học).

Thực tế, với một trường đại học không phải đa lĩnh vực thì không nhất thiết phải trở thành đại học.

Trước đây, Việt Nam không có các đại học đa lĩnh vực nhưng tại sao từ khi đất nước đổi mới, chúng ta lại đưa đại học đa lĩnh vực trở thành loại hình trường đại học ưu tiên trong quy hoạch sắp xếp mạng lưới các trường đại học, cao đẳng Việt Nam? Vậy đại học đa lĩnh vực có những ưu điểm gì?

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến: Ưu điểm của mô hình đại học đa lĩnh vực là: Bộ máy tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt; Ngân sách đầu tư tập trung, hiệu quả; Nâng cao chất lượng đào tạo (sinh viên được lựa chọn môn học, lựa chọn giảng viên, dễ mở ra các chương trình liên ngành,…).

Từ đó giúp phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn đại học, cho phép đại học đa lĩnh vưc “đánh hợp đồng binh chủng” để thực hiện những sứ mệnh to lớn hơn, cao hơn về đào tạo và nghiên cứu khoa học-chuyển giao công nghệ, so với các trường đại học chuyên ngành.

Ngoài ra cũng cần phải thấy là, đại học đa lĩnh vực có lợi hơn cho các trường trong việc chủ động ổn định quy mô đào tạo của mình trong điều kiện đất nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.

Lâu nay, mô hình University trong University của Việt Nam đã được bàn luận nhiều và nhiều chuyên gia cho rằng mô hình này còn những hạn chế nhất định. Nguyên nhân là gì, thưa ông?

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến: Đại học đa lĩnh vực phải được tổ chức như một chỉnh thể thống nhất, đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo, với một hệ thống quản trị 3 cấp: đại học (University), trường (College) và khoa (Department). Cấp Trường nằm trong University, hoàn toàn không được xem như một trường đại học độc lập.

Thế nhưng, Luật Giáo dục Đại học 2012 lại gọi đại học đa lĩnh vực là mô hình đại học hai cấp (University trong University), hay mô hình “đại học mẹ - đại học con”. Thực chất đây là mô hình “liên hiệp các trường đại học chuyên ngành” với 4 cấp quản lý: Đại học – Trường đại học – Khoa – Bộ môn. Và chính chuyên gia của World Bank cũng nhận định mô hình này chẳng giống ở nước nào.

Điều hạn chế ở đây là các trường thành viên trong đại học đa lĩnh vực có quyền tự chủ cao nên hoạt động gần như độc lập, không phối hợp với nhau, trước hết là về mặt đào tạo, nên không thể hiện được sức mạnh tổng hợp của mình như những đại học đa lĩnh vực đích thực.

Nguyên nhân của những hạn chế này là do tâm lý cục bộ, địa phương, muốn khép kín của đội ngũ quản lý ở mọi cấp.

Ngoài ra còn do thói quen thời bao cấp, ảnh hưởng từ mô hình đại học thời Liên Xô (không có đại học đa lĩnh vực mà chỉ có đại học chuyên ngành và universitet - đại học tổng hợp, lẫn lộn giữa khoa-Facultet với trường trực thuộc -Faculty) và ảnh hưởng bởi cơ chế “cơ quan chủ quản” (mỗi trường trực thuộc một Bộ).

Hệ thống văn bản, pháp quy vẫn còn một số bất cập: Đại học không được xem là một chỉnh thể thống nhất, Hội đồng đại học không phù hợp với tinh thần tự chủ đại học (mà chỉ thể hiện tư duy phân quyền)…; Các trường thành viên được nhà nước công nhận có tư cách gần như một trường đại học độc lập, điều này làm vô hiệu hóa cấp đại học, làm mất đi sức mạnh tổng hợp vốn có của một đại học đa lĩnh vực.

Cũng chính vì những vấn đề tồn tại nêu trên mà kéo theo xảy ra những khuynh hướng bất cập.

Thứ nhất là hiện tượng đòi ly khai: Tách đại học trở về lại các trường đại học chuyên ngành riêng lẻ. Trong quá khứ đã có những trường thành viên đòi tách ra độc lập khỏi đại học vùng.

Thứ hai là nâng đẳng cấp của các đại học (quốc gia, vùng) lên tầm của một đơn vị quản lý Nhà nước cấp “bộ”, cấp “tổng cục”, nhằm hướng tới có được “con dấu quốc huy”. Đó là câu chuyện có đại học vùng đề nghị được trở thành đại học quốc gia hoặc muốn nâng lên ngang cấp Tổng cục để có dấu Quốc huy. Tuy nhiên, cơ sở giáo dục đại học là một đơn vị sự nghiệp chứ không phải là một đơn vị quản lý Nhà nước để có được con dấu Quốc huy.

Thứ ba là khuynh hướng chuyển các đại học quốc gia, đại học vùng qua mô hình “tập đoàn đại học” hoặc “hệ thống đại học” để giữ nguyên tên khái niệm đại học hai cấp (Đại học mẹ - đại học con).

Thứ tư là nâng các trường đại học hoặc liên kết các trường đại học thành các “đại học dưới chuẩn” (không thỏa mãn tính đa lĩnh vực, gắn kết lỏng lẻo kiểu đa campus,…) mà không có tổ chức sắp xếp lại.

Trở lại câu chuyện của Đại học Bách khoa Hà Nội, có ý kiến cho rằng, không nên chú trọng quá nhiều về danh xưng “Trường đại học” hay “Đại học” mà nên quan tâm vào đẳng cấp của nó. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào? Yêu cầu đặt ra đối với Đại học Bách khoa Hà Nội trong thời gian tới sau khi đã có bước "chuyển mình" trở thành đại học?

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến: Tôi cho rằng ý kiến đó là chính xác, điều quan trọng nhất là đẳng cấp của trường.

Trở thành Đại học chẳng qua là sự thay đổi về cơ cấu quản lý, chứ không phải là nâng đẳng cấp của trường. Thí dụ như, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam hiện nay, mặc dù là cơ sở giáo dục theo chuyên ngành hẹp nhưng không ai có thể phủ nhận rằng, đây là cơ sở giáo dục đại học có đẳng cấp cao nhất ở Việt Nam trong lĩnh vực âm nhạc.

Trở về với câu chuyện Đại học Bách khoa, để trở thành một đại học đa lĩnh vực đích thực thì Đại học Bách khoa cần phải phát triển thêm hàng loạt các chương trình đào tạo thuộc những lĩnh vực khác nhau, như Đại học Quốc gia Hà Nội đã làm trong hơn 30 năm qua.

Bên cạnh đó, Đại học Bách khoa cần sớm công bố và công khai Điều lệ tổ chức và hoạt động mới của mình để mọi người có thể kiểm tra xem khi nào Đại học Bách khoa mới trở thành một đại học đa lĩnh vực đích thực.

Ông có đề xuất, kiến nghị gì để mô hình đại học đa lĩnh vực tại Việt Nam đi vào thực chất và có thể phát huy được những ưu thế vốn có của mô hình này?

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến: Trước hết, chúng ta cần làm rõ trong các luật về giáo dục các khái niệm: đại học, học viện, trường đại học, theo đúng thông lệ quốc tế.

Tuyệt đối không độc quyền sử dụng thuật ngữ đại học chỉ cho các đại học quốc gia và đại học vùng, cũng như sử dụng tùy tiện thuật ngữ University cho mọi loại trường đại học.

Cần sớm ban hành các nghị định mới về đại học quốc gia và đại học vùng, trong đó quy định chuyển đổi từ mô hình liên hiệp các trường đại học chuyên ngành qua mô hình đại học đa lĩnh vực. Bỏ quy định hình quốc huy ở con dấu của các đại học quốc gia. Hi vọng, Đại học Bách khoa và những đại học đa ngành khác trong tương lai sẽ không đòi hỏi phải có điều kiện này.

Các đại học quốc gia cần chuyển mạnh sang hướng nghiên cứu: tập trung vào nghiên cứu cơ bản và đào tạo sau đại học, không chạy theo số lượng.

Không đổi tên hoặc sáp nhập các cơ sở giáo dục đại học khác sứ mệnh, khác đẳng cấp với nhau một cách tùy tiện. Phải đảm bảo tính “đa lĩnh vực” của các đại học.

Các đại học đa lĩnh vực phải được ưu tiên trao quyền tự chủ. Việc trao quyền tự chủ cho các đại học phải được thực hiện song song với xóa bỏ cơ chế “cơ quan chủ quản”. Hội đồng đại học phải là một tổ chức quyền lực thực sự.

Phải quy định rõ chức năng của các cấp quản lý trong một đại học đa lĩnh vực: Hội đồng đại học – xây dựng chính sách, Giám đốc đại học – đề xuất và chỉ đạo thực hiện chính sách, Hiệu trưởng trường thành viên – triển khai chính sách, Trưởng khoa – thực hiện chương trình và hỗ trợ đội ngũ, Giảng viên – triển khai thực hiện chương trình.

Trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Lê Viết Khuyến!

Nguyên Phương