Nguyên Bộ trưởng Bộ GD Trần Hồng Quân

Giải phóng năng lượng, không phải tập trung quản lý

17/09/2011 12:08
(GDVN) - Chất lượng giáo dục vẫn dậm chân tại chỗ và loay hoay với những vấn nạn nhức nhối, kéo dài.
Xã hội càng phát triển, sự học càng được khao khát và đón nhận nhiều sự quan tâm của xã hội hơn. Đã có những tuyên bố về một cuộc cải cách giáo dục mạnh mẽ và toàn diện, triệt để nhằm chấn hưng đất nước.

Tuy nhiên, chất lượng giáo dục vẫn dậm chân tại chỗ và loay hoay với những vấn nạn nhức nhối, kéo dài. Nguyên Bộ trưởng Bộ GD – ĐT Trần Hồng Quân, hiện là Chủ tịch Hiệp hội Các trường Đại học - Cao đằng Ngoài công lập đã có những trao đổi về vấn đề này.

Vượt qua điểm sàn không phải đã hóa “Rồng”

PV: Là người gắn bó với nền giáo dục nước nhà nhiều năm, ông có thể lý giải vì sao giáo dục hiện nay lại là vấn đề khiến nhiều người bức xúc?

Giáo dục liên quan tới mọi nhà, do nhu cầu đòi hỏi của xã hội ngày càng cao mà đáp ứng chưa theo kịp nên tạo ra bức xúc. Cách quản lý GD cũng tạo thêm bức xúc.

PV: Như vậy chúng ta có quá nhiều khẩu hiệu mà ít hành động?

Bộ đã có nhiều chủ trương tốt như: dạy ngoại ngữ từ lớp 3, phổ cập giáo dục cho mầm non 5 tuổi, mở rộng tín dụng giáo dục cho học sinh - sinh viên, tinh giảm sách giáo khoa…  

Tôi không phê phán những khẩu hiệu hiện nay mà chỉ thấy khẩu hiệu nên chọn đúng vấn đề, xác đáng, có tính khả thi và quyết tâm làm cho được.

PV: Tại sao trong GD hiện nay có nhiều tiêu cực?Trước đây có nhiều không ? Phải chăng căn bệnh đó không có thuốc chữa?

Nhưng mỗi thời mỗi khác, trước đây môi trường xã hội  trong sáng hơn. Một thời chúng ta sống bằng lý tưởng, bằng những bản anh hùng ca nên chấp nhận mọi thiếu thốn về vật chất. Sau khi kháng chiến thắng lợi, người ta có những suy nghĩ để mang lại những giá trị lợi ích cho riêng mình. Coi giá trị vật chất là tối thượng, đó là vấn đề của xã hội.

Khi thấm đòn trả giá cho sự coi thường các giá trị tinh thần thì giai đoạn này qua đi, giá trị tinh thần lại vươn lên, tiêu cực sẽ giảm đi. Đây thực ra là một chu kỳ mang tính xã hội, do đó không nên bi quan mà hãy tin tưởng, cùng chung tay để giải quyết những vướng mắc một cách có hệ thống.

PV: Sẽ thật khó để giải quyết nếu chúng ta vẫn giữ cách tiếp cận giáo dục như hiện nay. Vấn đề thi cử, nhất là cấp đại học, mà nhiều người cho rằng “không giống ai” đang khiến dư luận xã hội lo lắng về chất lượng của một “thế hệ vàng”. Ông nghĩ sao về điều này?

Vấn đề thi đại học “3 chung” (chung đề, chung đợt, chung điểm) như hiện nay, cần nhìn lại lịch sử. Thời Bộ trưởng Tạ Quang Bửu, tất các các trường tự tổ chức thi, chấm thi và tự tuyển theo chỉ tiêu được giao.

Khi chiến tranh ở miền Bắc, phải chia ra từng địa phương để thi. Như vậy, “3 chung” hình thành từ tình huống chiến tranh. Sau giải phóng, các trường lại tự tổ chức, tự chấm thi. Chỉ có một chung là đề chung. Cuối những năm 1990 mới trở lại “3 chung”

Từ năm 2005, mới bắt đầu có thêm điểm sàn chung. Điểm sàn chung là điều tệ nhất. Cách thi ba môn, bốn khối không phản ánh được yêu cầu trình độ của từng ngành. Chẳng hạn thí sinh thi khối A (các môn Toán, Lý, Hóa) vào ngành Công nghệ thông tin (CNTT), một ngành đòi hỏi giỏi toán.

Một thí sinh thi được 9 điểm Toán nhưng Hóa và Lý kém, không đủ điểm sàn, rớt CNTT; thí sinh khác được 2 điểm Toán nhưng Hóa và Lý khá hơn, đủ điểm sàn và đỗ CNTT. Ai cũng có thể nghĩ rằng nếu TS nói đến đầu tiên có khả năng học tốt CNTT hơn nhưng em đã không đậu.  

Như vậy, với cách thi này, điểm thi không giúp ta  tuyển lựa  tốt TS thì liệu nó có đáng được coi như một chỉ số duy nhất và tuyệt đối để quyết định số phận của TS? Còn Điểm sàn, ngưỡng dưới của điểm thi có đáng coi như “vũ môn”, cứ vượt qua là  hóa “Rồng” ?

Năm nay, số thí sinh trên điểm sàn so với tổng chỉ tiêu nghe nói dôi dư hơn  200.000 người, thoạt nghe có thể yên tâm là các trường hoàn toàn có thể tuyển đủ chi tiêu. Nhưng theo thống kê, khối B dôi dư nhiều trong khi các khối kia không dư bao nhiêu, giờ có chuyển sang các khối đó được không? Nói một con số  dôi dư chung chung là thiếu khoa học.

Hơn nữa, số dôi dư nằm chủ yếu ở đồng bằng Bắc bộ, nơi giáo dục phổ thông phát triển cao nhất, trong khi các vùng miền Tây Nam và Tây bắc Tây nguyên rất thiếu nguồn nhân lực, nhưng lạ là các vùng “trũng” về GDPT nên số trên sàn luôn luôn ít ỏi.
GS.TS Trần Hồng Quân
GS.TS Trần Hồng Quân
Các trường ĐH vùng này không tuyển được TS tại chỗ. TS nơi khác chắc gì có điều kiện hoặc mong muốn đi xa để học? Như vậy, số dôi dư này vừa “thực”, lại vừa “ảo”.
   
Mùa tuyển sinh năm nay rất nhiều trường gặp khó khăn. Không chỉ các trường ngoài công lập mà cả các trường công lập ở các địa phương, các trường sư phạm. Nhiều ngành sẽ đóng cửa, thậm chí có thể một số trường cũng không sống được, một loạt hệ lụy sẽ xảy ra, rồi lại ngồi với nhau kiểm điểm trách nhiệm và giải quyết hậu quả.

Do đó, để tồn tại, họ phải cố sống, cố chết để có sinh viên. Đó là chuyện dở khóc, dở cười nhưng cũng nhiều đau xót. Trước khi trách các trường, phải xem lại căn nguyên từ đâu đã đẩy họ vào hoàn cảnh đó.

Đến thời điểm này, “3 chung” đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử. Tôi đồng tình với ý kiến này của GS.TSKH Đào Trọng Thi, Chủ nhiệm UB VH-GD của Quốc hội. Thi cử chỉ là một khâu trong quá trình đào tạo. Hãy để các trường tự lo liệu.. Nhà nước chỉ nên quản lý chất lượng đầu ra.

Đừng nghĩ chỉ có Bộ mới có trách nhiệm với xã hội

PV: Ấn tượng chung của xã hội là không hy sinh chất lượng cho số lượng và nếu buông lỏng đầu vào sẽ “loạn”, ông thấy sao?


Đương nhiên không nên buông lỏng nhưng cũng không nên nghĩ rằng chỉ có quản lý tập trung, thậm chí làm thay các trường mới bảo đảm được chất lượng. Đó là tâm lý của một thời trong cơ chế tâp trung quan liêu trước đây.

Bộ đang ôm đồm làm thay cho các trường và làm không xuể. Nên tin rằng phần lớn các trường cũng có trách nhiệm trước xã hội chứ không phải của Bộ . Bộ và Nhà nước nên mạnh dạn giao quyền tự chủ cho các trường như một sự giải phóng năng lượng để họ chủ động, sáng tạo. Bộ nắm trong tay công cụ quản lý nhà nước và chỉ nên làm quản lý nhà nước.

PV: Vậy điều căn bản cần thay đổi nhất hiện nay là gì, thưa ông?


Nghị quyết ĐH 11 đã nêu: phải đổi mới căn bản và toàn diện nền GD. Đó thực chất là Cải cách GD. Thế nào là đổi mới căn bản? Đó là vấn đề lớn, thậm chí người có trách nhiệm trực tiếp cũng chưa thể diễn đạt rõ ràng. Dù sao cũng phải hoàn thiện triết lý GD, làm rõ mô hình nhân cách, điều chỉnh cơ cấu hệ thống, xây dựng và triển khai một chương trình chiến lược mang tầm quốc gia để cải cách giáo dục, coi đó là con át chủ bài cho sự phát triển đất nước.

Đây không chỉ là vấn đề dân trí, nâng cao giá trị nhân cách con người như thành quả cách mạng đem lại cho người dân mà còn là bảo bối, sức mạnh, phương pháp, vũ khí quan trọng bậc nhất thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

Đầu tư giáo dục phải được ưu tiên số một chứ không phải sau tất cả những thứ khác như đường sắt cao tốc. Tác động của giáo dục đối với toàn bộ xã hội còn mạnh mẽ hơn và sức mạnh đó chúng ta khó tưởng tượng hết được.

Tiềm lực kinh tế nước ta chưa dồi dào nên hãy lựa chọn những ưu tiên hợp lý, đó là bài học của nhiều nước.
 
Một trong những đòi hỏi bức xúc là phải đổi mới về quản lý giáo dục.

Cây có “gốc” tốt thì mới chống chọi được dịch bệnh và những khắc nghiệt của tự nhiên. Giáo dục phải đi vào hai đầu: tiểu học, mầm non và đại học. Trẻ có căn bản sẽ dần dần tự đi lên. Còn bậc đại học trực tiếp tạo ra sức mạnh của xã hội. Nếu chúng ta có 5% dân cư ưu tú thì số đó sẽ dẫn dắt xã hội.

PV: Xin cảm ơn ông!

Bài phỏng vấn được đăng tải trên báo Quân Đội Nhân Dân Online