Ngày 10/10, Hội nghị Khoa học trẻ toàn quốc ngành Thuỷ sản lần thứ 14 được đồng tổ chức bởi Học viện Nông nghiệp Việt Nam và Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản I diễn ra với chủ đề “Khoa học trẻ Thuỷ sản Việt Nam: Đổi mới - Sáng tạo - Hội nhập”.
Đây là hoạt động thường niên do Mạng lưới các viện, trường đào tạo và nghiên cứu thủy sản Việt Nam (VIFINET) duy trì nhằm thúc đẩy các hoạt động khoa học công nghệ. Đồng thời tăng cường hợp tác và trao đổi kinh nghiệm nghiên cứu giữa các giảng viên, nhà khoa học trẻ, nghiên cứu viên, học viên cao học và sinh viên trong lĩnh vực thủy sản.
Tham dự Hội nghị có các đại biểu đến từ Vụ Khoa học và Công nghệ; Cục Thủy sản và Kiểm ngư - thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Các lãnh đạo từ các viện nghiên cứu, trường đại học trong và ngoài mạng lưới VIFINET.
Về phía Học viện Nông nghiệp Việt Nam, có Giáo sư, Tiến sĩ Trần Đức Viên - Chủ tịch Hội đồng Học viện; Tiến sĩ Nguyễn Công Tiệp - Phó Giám đốc Học viện; Phó Giáo sư, Tiến sĩ Kim Văn Vạn - Trưởng khoa Thủy sản, cùng lãnh đạo các khoa, ban chuyên môn, Nhà xuất bản của Học viện Nông nghiệp Việt Nam.

Phát biểu khai mạc Hội nghị, Tiến sĩ Nguyễn Công Tiệp - Phó Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho biết: Hội nghị năm nay không chỉ là diễn đàn cập nhật những tri thức mới về khoa học và công nghệ, mà còn góp phần hiện thực hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Qua đó, hướng tới mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh, gia tăng giá trị và thúc đẩy phát triển bền vững ngành thủy sản Việt Nam.
Theo thầy Tiệp, đây chính là cơ hội quý để các giảng viên, nhà khoa học trẻ, nghiên cứu sinh, học viên và sinh viên cùng giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm, hình thành các mối liên kết nghiên cứu và hợp tác học thuật lâu dài, góp phần xây dựng một cộng đồng khoa học thủy sản Việt Nam năng động, sáng tạo và hội nhập sâu rộng quốc tế.
Năm 2025, Hội nghị Khoa học trẻ toàn quốc ngành Thuỷ sản lần thứ 14 đã nhận được hơn 180 bài báo khoa học, trong đó 55 bài được phản biện và duyệt đăng trên ba tạp chí khoa học có điểm của Hội đồng Giáo sư Nhà nước, bao gồm: Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam; Vietnam Journal of Agricultural Science và Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường.
Bên cạnh đó, 127 báo cáo khoa học được đăng ký trình bày tại Hội nghị, gồm 60 báo cáo Oral và 67 báo cáo Poster, được chia thành 05 tiểu ban chuyên ngành: Công nghệ nuôi và Môi trường; Di truyền và Sản xuất giống; Dinh dưỡng và Thức ăn thủy sản; Bệnh thủy sản; Kinh tế, Chế biến và Quản lý nguồn lợi thủy sản.

Trong khi đó, Tiến sĩ Trần Đình Luân - Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư, Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhìn nhận: “Chưa bao giờ vai trò của khoa học và công nghệ lại trở nên cấp thiết như giai đoạn hiện nay, và Hội nghị lần này chính là hoạt động có ý nghĩa thiết thực, góp phần hưởng ứng và triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Đây cũng là dịp để ngành nắm bắt các kết quả nghiên cứu mới nhất, qua đó định hướng ứng dụng công nghệ vào thực tiễn sản xuất thủy sản một cách hiệu quả và bền vững”.
Tiến sĩ Trần Đình Luân cho biết, theo tinh thần của Nghị quyết 57, lĩnh vực khoa học, công nghệ và chuyển đổi số đang có những thay đổi sâu rộng, mở ra hướng phát triển mới cho ngành thủy sản, đặc biệt là trong nuôi trồng thủy sản - lĩnh vực được xác định là trọng tâm theo Quyết định 339 phê duyệt Chiến lược phát triển thuỷ sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 của Thủ tướng Chính phủ.
Đáng chú ý, lần đầu tiên chiến lược ngành đặt ra mục tiêu giảm sản lượng khai thác biển từ 3,8 triệu tấn xuống còn 2,8 triệu tấn, đồng thời tập trung khai thác tiềm năng to lớn của nuôi trồng thủy sản để bù đắp và phát triển bền vững hơn.
“Với những mục tiêu đó, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo toàn diện, đồng bộ là yêu cầu tất yếu. Tôi tin rằng với vai trò tiên phong của các nhà khoa học, các viện nghiên cứu và trường đại học, chúng ta sẽ nắm bắt kịp xu thế, cùng chung tay tận dụng thành tựu khoa học – công nghệ để thúc đẩy sự phát triển của ngành thủy sản, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản theo hướng hiện đại, hội nhập và bền vững.
Điều này không chỉ giúp ổn định sản xuất, mà còn duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong thời gian tới”, Cục trưởng Cục thuỷ sản và Kiểm ngư kỳ vọng.

Ngành thuỷ sản của Việt Nam tăng trưởng ổn định, đứng thứ 3 trên thế giới
Trong báo cáo đề dẫn “Cơ hội của ngành Thủy sản Việt Nam và vai trò của thế hệ trẻ”, Tiến sĩ Lê Thanh Lựu – nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, đồng sáng lập Mạng lưới các Viện nghiên cứu và Trường đại học thủy sản Việt Nam (ViFINET), Giám đốc Trung tâm Hợp tác Quốc tế Nuôi trồng và Khai thác Thủy sản bền vững (ICAFIS) cho biết: Việt Nam hiện là quốc gia xuất khẩu thủy sản lớn thứ ba thế giới, chiếm hơn 7% thị phần toàn cầu, chỉ sau Trung Quốc và Na Uy. Trong ba thập niên qua, ngành thủy sản đã đạt tốc độ tăng trưởng ổn định, đóng góp lớn vào an ninh lương thực, tạo việc làm cho khoảng 4 triệu lao động và mang lại thặng dư thương mại đáng kể cho đất nước.
Theo Tiến sĩ Lê Thanh Lựu, Việt Nam có nhiều lợi thế nổi bật để phát triển mạnh mẽ ngành thủy sản, từ lực lượng lao động chất lượng cao, chính sách hỗ trợ của Chính phủ, đến hệ thống dịch vụ, logistics và chế biến hiện đại, cùng thị trường xuất khẩu rộng khắp 190 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tuy nhiên, ngành vẫn đối mặt với nhiều thách thức, như tác động của biến đổi khí hậu, cạnh tranh gay gắt trong khu vực, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, liên kết chuỗi yếu, và hạn chế trong công tác chọn tạo giống, ứng dụng công nghệ hiện đại.

Trước thực tế đó, ông kêu gọi đội ngũ các nhà khoa học trẻ phát huy tinh thần sáng tạo, chủ động tìm kiếm giải pháp mới, tận dụng cơ hội để thúc đẩy phát triển bền vững ngành thủy sản.
Theo ông, đổi mới công nghệ, thay đổi tư duy và phương pháp tiếp cận là yêu cầu tất yếu. Do đó, ngành cần hướng tới sản xuất trung hòa khí thải vào năm 2050, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, tổ chức lại sản xuất theo mô hình hợp tác xã hoặc doanh nghiệp quy mô lớn. Đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo và chuyển đổi số để nâng cao năng suất, kiểm soát môi trường và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Tại Hội nghị, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Kim Văn Vạn - Trưởng khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã trình bày báo cáo nghiên cứu với chủ đề “Bệnh động vật thủy sản ở Việt Nam”.
Theo thầy Vạn, trước những năm 1990, hoạt động nuôi trồng thủy sản trong nước còn hạn chế, dịch bệnh chưa phổ biến, trang thiết bị và nhân lực nghiên cứu còn thiếu thốn.

Giai đoạn 1990–2000, khi nghề nuôi tôm sú bắt đầu phát triển mạnh, nhiều bệnh do virus xuất hiện trên tôm. Một số bệnh phổ biến khác gồm bệnh đốm đỏ ở cá trắm cỏ, bệnh lở loét ở cá biển. Thời điểm này, việc chẩn đoán chủ yếu dựa vào phương pháp mô bệnh học, và các giảng viên, nghiên cứu viên thường được tập huấn từ Thái Lan.
Từ sau năm 2000 đến nay, cùng với sự phát triển của công nghệ nuôi, thức ăn và thuốc thủy sản, dịch bệnh xảy ra thường xuyên và phức tạp hơn. Nhóm nghiên cứu của Khoa Thủy sản đã thực hiện nhiều đề tài liên quan đến đặc điểm dịch tễ, bệnh lý và chẩn đoán bệnh Koi Herpes Virus (KHV) trên cá chép nuôi tại miền Bắc Việt Nam, cùng một số đối tượng thủy sản khác.
Ngoài ra, nhóm còn nghiên cứu ứng dụng thảo dược trong phòng trị bệnh thủy sản, như trầu không, diệp hạ châu, cà gai leo. Sử dụng lá xoan, hạt bí ngô, cây trăm bầu để diệt ký sinh trùng, hay lá bàng, lá ổi, lá sim trong nuôi cá cảnh.
“Dù nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ về quy mô và kỹ thuật, dịch bệnh vì thế cũng trở nên đa dạng và khó kiểm soát hơn khi xuất hiện ở nhiều nhóm mầm bệnh khác nhau như virus, vi khuẩn, ký sinh trùng và nấm, với tần suất và mức độ tổn thương gia tăng do mật độ nuôi cao, biến đổi môi trường và lưu chuyển giống, con giống giữa các vùng.
Tuy nhiên, điều đáng mừng là lĩnh vực này đang thu hút đông đảo các nhà khoa học trẻ, với nhiều kết quả nghiên cứu bước đầu đầy triển vọng. Đây sẽ là tiền đề quan trọng để ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam tiếp tục đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả phòng trị bệnh, hướng tới phát triển an toàn, hiện đại và bền vững trong tương lai”, thầy Vạn nhấn mạnh.