Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục đại học để lấy ý kiến. Trong đó, để được công nhận là đại học, cơ sở giáo dục cần đáp ứng hàng loạt tiêu chí về tổ chức và cơ cấu ngành đào tạo, quy mô đào tạo, đội ngũ giảng viên, hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo...
Với điều kiện về tổ chức và cơ cấu ngành đào tạo, cơ sở giáo dục phải có ít nhất 5 trường thành viên (tăng 2 trường so với hiện tại), tối thiểu 25 ngành đào tạo đến trình độ tiến sĩ (tăng 15 ngành so với hiện tại).
Theo lãnh đạo một số trường đại học, những điều kiện này giúp hình thành các đại học tiêu biểu có vai trò dẫn dắt hệ thống giáo dục đại học nói chung, song cũng đặt ra nhiều vấn đề cần cân nhắc kỹ lưỡng.
Tạo động lực để cơ sở giáo dục đầu tư bài bản hơn cho đào tạo tiến sĩ và nghiên cứu khoa học
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quang - Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên cho rằng việc nâng yêu cầu tối thiểu lên 5 trường thành viên và 25 ngành đào tạo trình độ tiến sĩ là điều cần thiết, phản ánh đúng bản chất và sứ mệnh của mô hình đại học trong bối cảnh phát triển mới của giáo dục đại học Việt Nam.
Đây không chỉ là sự mở rộng về quy mô, mà còn thể hiện yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, năng lực nghiên cứu khoa học và tính liên ngành - những yếu tố cốt lõi làm nên một đại học đúng nghĩa.
Việc đặt ra các tiêu chí cụ thể về số lượng trường thành viên và ngành đào tạo tiến sĩ góp phần xác lập chuẩn mực rõ ràng, phân biệt giữa mô hình “đại học” và “trường đại học”, đồng thời tạo động lực để các cơ sở giáo dục đầu tư bài bản hơn cho đào tạo sau đại học và nghiên cứu khoa học.
Qua đó, các đại học không chỉ nâng cao vị thế, uy tín học thuật mà còn từng bước khẳng định vai trò trung tâm tri thức, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và hội nhập quốc tế.
Dù vậy, theo thầy Quang, việc quy định tăng số lượng ngành đào tạo trình độ tiến sĩ có thể dẫn tới tình trạng chạy theo quy mô, xem nhẹ chất lượng. Nhưng mục tiêu cốt lõi của quy định này không phải là tăng số lượng cho đủ chuẩn, mà là bảo đảm năng lực đào tạo và nghiên cứu ở trình độ cao của mô hình đại học.
“Điều quan trọng không nằm ở con số bao nhiêu ngành, mà vấn đề then chốt là phải xây dựng và thực thi chặt chẽ các cơ chế thẩm định, siết chặt quản lý chất lượng, kiểm định; đồng thời nâng cao chuẩn đầu vào, đầu ra, chuẩn đội ngũ và trách nhiệm giải trình của cơ sở đào tạo.
Khi các tiêu chí này được thực hiện nghiêm túc và đồng bộ, việc mở ngành đào tạo tiến sĩ sẽ không còn mang tính hình thức hay dàn trải, thiếu chiều sâu mà thực sự góp phần nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước”, Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Thái Nguyên bày tỏ.
Đồng quan điểm, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Thị Thu Giang - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hạ Long khẳng định việc nâng yêu cầu về số lượng trường thành viên, quy mô ngành đào tạo tiến sĩ và nhiều tiêu chuẩn cao hơn hiện tại phản ánh sứ mệnh và kỳ vọng của Nhà nước về mô hình “đại học” trong giai đoạn tới của giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói riêng.
Trước hết, đây là hướng khắc phục hạn chế đã được chỉ ra tại Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo: “hệ thống giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp phát triển manh mún, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và nghiên cứu khoa học, nhất là ở một số ngành, lĩnh vực trọng điểm”, đồng thời đáp ứng yêu cầu “nâng tầm các cơ sở giáo dục đại học”, “nâng chuẩn cơ sở giáo dục ở tất cả cấp học”.
Hơn nữa, việc nâng tiêu chuẩn công nhận “đại học” lần này cũng đáp ứng tinh thần hiện đại hóa và nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Ngoài ra, chủ trương này giúp hình thành các đại học tiêu biểu có vai trò dẫn dắt hệ thống giáo dục đại học nói chung, có quy mô lớn, đào tạo đa lĩnh vực, có năng lực đào tạo và nghiên cứu ở trình độ cao, năng lực quản trị, chất lượng học thuật, khả năng sáng tạo tri thức mới và đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
“Việc yêu cầu tăng số lượng ngành đào tạo trình độ tiến sĩ để được công nhận đại học là hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển. Thực tế, việc mở ngành đào tạo là tâm huyết và quyết tâm cao của các cơ sở giáo dục đại học. Khi đào tạo tiến sĩ được chú trọng, cơ sở giáo dục sẽ thực sự trở thành trung tâm tri thức, nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hạ Long nói thêm.
Mở rộng đào tạo tiến sĩ là cần thiết, nhưng cần đi kèm các điều kiện bảo đảm chất lượng
Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và đổi mới sáng tạo ngày càng giữ vai trò then chốt, việc tăng quy mô đào tạo tiến sĩ mang lại nhiều lợi ích thiết thực và lâu dài. Không chỉ góp phần hình thành đội ngũ nhân lực trình độ cao cho nghiên cứu khoa học, giảng dạy và hoạch định chính sách, đào tạo tiến sĩ còn thúc đẩy năng lực sáng tạo, chuyển giao công nghệ và giải quyết các vấn đề phức tạp của xã hội.
Liên quan đến vấn đề này, theo Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, việc đưa ra các tiêu chí mới đối với mô hình đại học là một bước đi thể hiện mong muốn nâng tầm hệ thống giáo dục đại học, song cần được nhìn nhận một cách toàn diện, thận trọng và gắn với thực tiễn phát triển của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam.
Ở góc độ bản chất, thầy Trình cho rằng “đại học” là một cơ sở giáo dục quy mô lớn, đa ngành, đa lĩnh vực và giữ vai trò dẫn dắt về học thuật. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, bên cạnh những đại học quy mô lớn, xã hội vẫn rất cần các cơ sở đào tạo tinh gọn nhưng có chất lượng cao, có khả năng tạo ra giá trị học thuật và tác động sâu rộng.
“Thực tế cho thấy, nhiều cơ sở giáo dục đại học danh tiếng trên thế giới không hẳn có quy mô lớn về số lượng sinh viên hay ngành đào tạo, nhưng lại có ảnh hưởng rất mạnh mẽ nhờ chất lượng đào tạo, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.
Việc nâng yêu cầu về số lượng ngành đào tạo tiến sĩ là cần thiết, song không nên hiểu theo hướng chạy theo quy mô. Điều quan trọng hơn là chất lượng đào tạo tiến sĩ phải thực sự tiệm cận chuẩn mực quốc tế.
Việt Nam hiện vẫn còn thiếu nguồn nhân lực trình độ cao, đặc biệt là đội ngũ nghiên cứu chuyên sâu. Do đó, việc mở rộng đào tạo tiến sĩ là cần thiết, nhưng phải song hành với các điều kiện bảo đảm về chất lượng, từ đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, môi trường nghiên cứu cho đến cơ chế tài chính.
Công tác đào tạo tiến sĩ không thể chỉ dừng lại ở việc tăng số lượng chỉ tiêu, mà cần hướng tới hình thành đội ngũ nghiên cứu chuyên nghiệp. Trong đó, nghiên cứu sinh phải được coi là lực lượng lao động khoa học thực thụ, có điều kiện toàn tâm toàn ý cho nghiên cứu, thay vì vừa học vừa làm trong điều kiện thiếu thốn về thời gian và nguồn lực.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, chỉ khi nghiên cứu sinh được bảo đảm về môi trường làm việc, thu nhập và điều kiện nghiên cứu thì mới có thể tạo ra các sản phẩm khoa học chất lượng cao, đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội”, Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội nhấn mạnh.
Bên cạnh đó cũng có ý kiến lo ngại rằng việc đặt ra các tiêu chí cứng như số lượng trường thành viên hay số ngành đào tạo tiến sĩ có thể trở thành rào cản cho sự đa dạng mô hình phát triển đại học hiện nay. Về nội dung này, Giáo sư, Tiến sĩ Chử Đức Trình cho rằng vấn đề không nằm ở con số tuyệt đối, mà ở cách tiếp cận và triển khai.
Theo đó, điều cốt lõi không phải là tên gọi “đại học” hay “trường đại học”, mà là triết lý phát triển, mức độ tự chủ và văn hóa học thuật của cơ sở đào tạo. Một trường có quy mô vừa phải nhưng có chiến lược rõ ràng, đội ngũ giảng viên mạnh và môi trường học thuật cởi mở hoàn toàn có thể tạo ra ảnh hưởng lớn, thậm chí vượt xa những cơ sở có quy mô lớn nhưng thiếu chiều sâu.
“Nhiều cơ sở giáo dục đại học hàng đầu thế giới như Đại học Stanford (Mỹ), Viện Công nghệ Caltech (Mỹ),... có quy mô sinh viên không lớn nhưng lại giữ vai trò trung tâm trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, dẫn dắt các ngành khoa học - công nghệ mũi nhọn và tạo ra tác động toàn cầu. Điều đó cho thấy, chất lượng và tầm ảnh hưởng mới là thước đo quan trọng nhất của một cơ sở giáo dục đại học.
Việt Nam hoàn toàn có khả năng xây dựng những đại học tinh hoa, có vị thế trong khu vực và quốc tế, nếu có chiến lược phát triển dài hạn, đầu tư trọng tâm và chính sách phù hợp.
Việc phát triển hệ thống giáo dục đại học không nên chạy theo số lượng hay hình thức, mà cần hướng tới xây dựng những trung tâm tri thức thực sự, có khả năng dẫn dắt đổi mới, sáng tạo và đóng góp thiết thực cho sự phát triển bền vững của đất nước”, thầy Trình cho hay.
Trong khi đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quang cho rằng, việc công nhận danh xưng “đại học” cần được xem xét trên cơ sở một hệ thống tiêu chí toàn diện, phản ánh đúng bản chất và sứ mệnh của mô hình đại học trong bối cảnh hội nhập quốc tế, thay vì chủ yếu dựa vào số lượng trường thành viên hay ngành đào tạo trình độ tiến sĩ.
Trước hết, cần đặt trọng tâm vào năng lực quản trị đại học hiện đại, hiệu quả và minh bạch; chất lượng đào tạo ở cả bậc đại học và sau đại học; cùng với năng lực nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo.
Bên cạnh đó, các yếu tố về cơ sở vật chất, đội ngũ nhân lực chất lượng cao, hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng bên trong – bên ngoài cũng cần được xem xét một cách nghiêm túc.
Đồng thời, mức độ đóng góp của cơ sở giáo dục đối với cộng đồng, xã hội và sự phát triển của vùng, địa phương cũng là thước đo quan trọng phản ánh giá trị và vai trò của một đại học đúng nghĩa. Trên tinh thần đó, chủ trương nâng chuẩn mô hình đại học theo hướng thực chất, bền vững và tiệm cận thông lệ quốc tế là hoàn toàn hợp lý.