Phải tìm ra lý do vì sao Hội đồng trường tốt như vậy mà không phát huy hiệu quả?

05/04/2017 07:42
Tiến sĩ Lê Viết Khuyến
(GDVN) - Chúng ta chưa nên thành lập đại trà Hội đồng trường ở tất cả các trường đại học. Hội đồng trường chỉ nên thành lập ở những trường đã hội đủ các điều kiện.

LTS: Cùng với xu hướng gia tăng quyền tự chủ của các trường đại học, cơ chế Hội đồng trường được sử dụng rất phổ biến trong quản trị giáo dục đại học ở nhiều nước trên thế giới. 

Tuy nhiên ở Việt Nam, cơ chế này mới được đưa vào áp dụng từ một vài năm gần đây. 

Khái niệm “Hội đồng trường” được đưa ra trong Điều lệ trường đại học ban hành kèm theo Quyết định số 153/QĐ-TTg ngày 30/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ. 

Tại Điều 30 của Điều lệ này khẳng định: “… Hội đồng đường trường là cơ quan quản trị của trường đại học; quyết nghị các chủ trương lớn để thực hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường đại học…".

Đến Luật Giáo dục năm 2005, khái niệm “Hội đồng trường” lại được nêu lại tại Điều 53: “… Hội đồng trường là tổ chức chịu trách nhiệm quyết định về phương hướng hoạt động của nhà trường, huy động và giám sát việc sử dụng các nguồn lực dành cho nhà trường, gắn nhà trường với cộng đồng và xã hội, bảo đảm thực hiện mục tiêu giáo dục…".

Khái niệm này được giải thích rõ hơn tại Điều 24 của Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục năm 2005: “… Hội đồng trường là tổ chức quản trị, đại diện chủ sở hữu của nhà trường…".

Trong Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 cũng nêu: “… Trên cơ sở hình thành Hội đồng trường đại diện cho cộng đồng xã hội, các cơ sở giáo dục đại học hoạt động tự chủ và nâng cao trách nhiệm xã hội, tiến tới xoá bỏ cơ chế bộ chủ quản...”.

Tuy nhiên ở Việt Nam dường như cơ chế Hội đồng trường còn chưa được các trường đại học thực sự ủng hộ bởi vì cho tới nay trong tổng số hơn 180 trường đại học công lập mới chỉ có vài trường có Hội đồng trường. 

Và ngay tại những trường này, Hội đồng trường hoạt động rất mờ nhạt và hầu như không thể hiện được vai trò của một tổ chức quyền lực.

Chính vì vậy, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến – Trưởng ban hỗ trợ chất lượng giáo dục (Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam) cho rằng, chúng ta cần làm sáng tỏ lý do vì sao một chủ trương quan trọng và đúng đắn như vậy lại không thực sự đi vào cuộc sống của các trường đại học công lập trong thời gian vừa qua.

Trong bài viết này, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến nêu chi tiết về các mô hình Hội đồng trường trong các trường đại học trên thế giới, tại Việt Nam và những giải pháp, đề xuất cụ thể. 

Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả. 


Thứ nhất, về các mô hình Hội đồng trường trong các trường đại học trên thế giới và tại Việt Nam

Trong tổ chức quản trị xã hội và Nhà nước có hai loại cơ chế (hay định chế) tổ chức chính được sử dụng rất phổ biến: 

Một là, cơ chế có cấu trúc kiểu tập quyền (Hierachical) hay cơ chế hành chính/quan liêu (Bureaucratic), cấp trên bổ nhiệm cấp dưới và cấp dưới phải chấp hành chỉ thị của cấp trên dưới dạng các quyết định cá nhân.
 
Hai là, cơ chế điều phối tự quản (Self – regulation) kiểu hội đồng, theo cách bầu chọn đại diện của các nhóm lợi ích có liên quan (Stakeholders).

Các đại diện trong hội đồng có quan hệ bình đẳng và quyết định phải triển khai là những nghị quyết của tập thể hội đồng.

Riêng trong lĩnh vực quản trị giáo dục đại học cơ chế Hội đồng trường được sử dụng rất phổ biến ở các nước phát triển và đang được sử dụng ngày càng nhiều hơn ở những nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ, Đông Âu, Trung Âu…

Có rất nhiều mô hình và tên gọi khác nhau để chỉ Hội đồng trường như: Board of Trustees, Board of Regents, Board of Governors, University Board, University Council, University Court,…

Chuyên gia nói gì về mô hình Hội đồng trường trong các trường đại học hiện nay? (Ảnh minh họa dẫn từ nguồn Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh)
Chuyên gia nói gì về mô hình Hội đồng trường trong các trường đại học hiện nay? (Ảnh minh họa dẫn từ nguồn Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh)

Tuy nhiên, tất cả các mô hình này đều mang đặc trưng của một hội đồng cai quản với thẩm quyền cao nhất trong một trường đại học, đại diện cho chủ sở hữu của nhà trường, mà đối với các trường đại học công lập thì đó chính là chủ sở hữu cộng đồng. 

Bao gồm các nhóm lợi ích có liên quan như: cơ quan chủ quản (nhà nước), giáo chức, cán bộ công nhân viên, sinh viên, giới tuyển dụng, nhà tài trợ, trường bạn, người đóng thuế, người dân trong vùng…

Vì sao cơ chế Hội đồng trường lại có sức hấp dẫn rất lớn đối với các hệ thống giáo dục đại học khác nhau trên thế giới?  Xin được nêu ra 3 lý do sau:

- Chỉ có Hội đồng mới đưa ra được các quyết định thể hiện ý muốn của chủ sở hữu cộng đồng.

- Chỉ có Hội đồng với tư cách đại diện của chủ sở hữu cộng đồng mới dám chấp nhận những hành đồng có nguy cơ “rủi ro” cao để tạo ra được sự đổi mới thật sự.

- Chỉ có cơ chế Hội đồng mới tạo nên sự phù hợp giữa quyền sử dụng của người quản lý nhà trường với quyền sở hữu của chủ sở hữu cộng đồng.

Dưới đây, có thể xem xét cơ cấu và chức năng của Hội đồng trường của một số trường đại học cụ thể:

Phải tìm ra lý do vì sao Hội đồng trường tốt như vậy mà không phát huy hiệu quả? ảnh 2

Hội đồng trường chỉ là danh nghĩa, có cũng như không

Một là, Hội đồng trường đại học của Liên Xô thời kỳ cải tổ (trước 1990):

Trước thời kỳ cải tổ ở Liên Xô không có khái niệm về Hội đồng trường và Hội đồng trường chỉ xuất hiện từ năm 1989. 

Theo Điều lệ trường đại học của Liên Xô ban hành ngày 7/7/1989, Hội đồng trường là tổ chức quản trị cao nhất trong một trường đại học thực hiện chức năng làm chủ của tập thể lao động trong trường.

Thành phần của Hội đồng bao gồm không quá 50% thành viên từ Hội đồng khoa học của trường. 

Những thành viên còn lại được bầu chọn trong các hội nghị của nhà trường: không ít hơn 50% đại diện cho giáo chức và cán bộ nghiên cứu, không dưới 25% đại diện cho sinh viên và nghiên cứu sinh, không dưới 10% đại diện cho đội ngũ nhân viên phục vụ.
 
Số lượng thành viên hội đồng không dưới 100 người; nhiệm kỳ 5 năm. Hiệu trưởng kiêm nhiệm Chủ tịch Hội đồng trường.

Hội đồng có trách nhiệm xem xét và phê chuẩn điều lệ trường, bầu chọn Hiệu trưởng, nghe báo cáo hàng năm của Hiệu trưởng, xem xét đường lối phát triển kinh tế - xã hội của nhà trường và phê chuẩn việc sử dụng các quỹ phát triển sản xuất và xã hội của nhà trường.

Hai là
, Hội đồng Viện đại học Wayne (bang Michigan – Hoa Kỳ)

Hội đồng có 8 thành viên do người dân của bang Michigan bầu chọn và được Thống đốc bang bổ nhiệm với nhiệm kỳ 8 năm.

Đây là điểm khác biệt rất lớn với phần đông các trường đại học khác của Hoa Kỳ.

Các thành viên của Hội đồng không có lương mà chỉ được thanh toán những chi phí cần thiết có liên quan tới công việc của hội đồng.

Hội đồng có trách nhiệm bầu ra Chủ tịch (Hiệu trưởng) Viện đại học, giám sát tổng thể Viện đại học; kiểm soát và định hướng mọi chi tiêu từ các quỹ của Viện đại học; định ra chính sách học phí và mọi chế độ chi tiêu trong Viện đại học;

Và quy định các thể chế về sử dụng quà tặng, mua sắm và thanh lý các tài sản, về việc ký kết các thoả thuận và hợp đồng với các đơn vị và cá nhân bên ngoài Viện đại học…

Ba là, Hội đồng trường đại học theo tư vấn của Trung tâm bảo đảm chất lượng giáo dục quốc tế (Hoa Kỳ) cho Việt Nam.

Hội đồng trường bao gồm các thành viên được tuyển chọn từ nội bộ nhà trường, từ xã hội và từ các cơ quan nhà nước.

Hội đồng có trách nhiệm xác định thời hạn và điều kiện bổ nhiệm Hiệu trưởng; phát triển và phê duyệt các chương trình đào tạo; quy định các chế độ quản lý tài chính, kể cả các việc chi tiêu và lợi tức; quản trị nhân sự; xác định chính sách học phí; quản trị tài sản, kể cả việc xây dựng; quy định chế độ mua sắm, đấu thầu…

Bốn là, Hội đồng Viện đại học Hoàng tử vùng Songkla 1979 (Thái Lan)

Hội đồng Viện đại học bao gồm các thành viên:

- Chủ tịch Hội đồng do Nhà vua chỉ định và bổ nhiệm.

Phải tìm ra lý do vì sao Hội đồng trường tốt như vậy mà không phát huy hiệu quả? ảnh 3

Sắp tổ chức hội thảo về Hội đồng trường

- Các thành viên đương nhiên gồm: Chủ tịch Viện đại học, các Phó Chủ tịch, Hiệu trưởng các trường thành viên;

- Không ít hơn 11 thành viên nhưng không quá 15 thành viên từ cộng đồng (bên ngoài Viện đại học) được Nhà vua bổ nhiệm;

- Không quá 2 thành viên đại diện cho giáo chức từ mỗi cơ sở (phân hiệu) trực thuộc trường.

Hội đồng có chức năng kiểm soát và giám sát các công việc chung của Viện đại học, cụ thể như sau:

- Tư vấn để Nhà vua bổ nhiệm Chủ tịch Viện đại học.

- Định ra các chính sách của Viện đại học.

- Ban hành các quy chế và quy định của Viện đại học.

- Phê chuẩn các văn bằng, chứng chỉ đào tạo.

- Xem xét và phê chuẩn các quyết định về tổ chức và nhân sự.

- Thi hành các quyết định bổ nhiệm và miễn nhiệm của Nhà vua về các chức vụ Chủ tịch và Giáo sư.

- Phê duyệt các chương trình đào tạo.

- Ban hành các quy định về quản lý tài chính và tài sản; xem xét và phê chuẩn các quỹ ngân sách từ các nguồn thu của Viện đại học.

Nhiệm kỳ của các thành viên Hội đồng là 2 năm, trong khi nhiệm kỳ của Chủ tịch Viện đại học là 3 năm.

Hội đồng trường chỉ là danh nghĩa, có cũng như không

Năm là, Hội đồng quản trị Viện đại học Quốc gia ở miền Nam trước giải phóng (1975).

Theo Quy chế Viện đại học Quốc gia do Chính quyền Sài Gòn ban hành năm 1970, mỗi Viện đại học Quốc gia đều được quản trị bằng một Hội đồng quản trị, có thành phần bao gồm:

Viện trưởng Viện đại học (kiêm nhiệm Chủ tịch hội đồng), các Phó Viện trưởng, các khoa trưởng, 1 giáo sư đại diện cho giáo chức ở mỗi phân khoa, 1 nhân sĩ do Hội đồng tỉnh đề cử, 1 nhân sĩ do tỉnh trưởng đề cử và 1 đại diện của Bộ Giáo dục.

Hội đồng quản trị có thẩm quyền tổng quát về mọi công việc của Viện đại học như: ấn định mục tiêu và kế hoạch phát triển của Viện đại học; kiểm soát việc điều hành Viện; tìm kiếm nguồn lực tài chính và quản trị tài sản của Viện; đưa ra các quyết định về tổ chức và nhân sự của Viện;

Rồi phê chuẩn hệ thống văn bằng và chứng chỉ đào tạo; soạn thảo điều lệ của Viện; đề xuất dự trù ngân sách hàng năm của Viện; ban hành học chế; xây dựng báo cáo hàng năm về tình hình Viện đại học,….

Nhiệm kỳ hoạt động của Hội đồng quản trị cũng như của Viện trưởng Viện đại học là 4 năm.

Sáu là, Hội đồng trường theo Điều lệ trường đại học ban hành tại các Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg ngày 30/7/2003 và số 70/2014/QĐ-TT ngày 10/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ.

Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học khẳng định Hội đồng trường là tổ chức quản trị, đại diện cho chủ sở hữu của trường đại học.

Phải tìm ra lý do vì sao Hội đồng trường tốt như vậy mà không phát huy hiệu quả? ảnh 4

Một số vấn đề nổi cộm trong quản lý giáo dục

Hội đồng trường đại học có số lượng thành viên tối thiểu 15 người, bao gồm:

- Các thành viên đương nhiên: Bí thư Đảng uỷ, Hiệu trưởng và Chủ tịch Công đoàn trường.

- Đại diện cơ quan trực tiếp quản lý trường.

- Các thành viên được bầu: đại diện Hội đồng khoa học và đào tạo, đại diện giáo chức, đại diện công chức khối hành chính, đại diện Đoàn TNCSHCM và Hội sinh viên.

- Các thành viên được mời từ bên ngoài (Ủy ban nhân dân tỉnh, các tổ chức nghiên cứu khoa học, nhà quản lý giáo dục, nhà hoạt động chính trị – xã hội, nhà doanh nghiệp…) với số lượng không dưới 20% tổng số thành viên Hội đồng trường.

Hội đồng trường làm việc theo phương thức thảo luận, thông qua các nghị quyết tập thể.

Hội đồng trường có các nhiệm vụ:

- Quyết nghị về mục tiêu chiến lược và kế hoạch phát triển của nhà trường.

- Quyết nghị về quy chế tổ chức và hoạt động của trường.

- Quyết định các chủ trương chi tiêu, đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị.

- Giám sát việc thực hiện các quyết nghị của Hội đồng trường.

Nhiệm kỳ hoạt động của Hội đồng trường là 5 năm.

Để nâng cao vai trò quan trọng của Hội đồng trường, Điều lệ trường đại học ban hành cuối năm 2014 đã bổ sung thêm một số nhiệm vụ rất quan trọng của Hội đồng trường:

- Định kỳ hoặc đột xuất báo cáo giải trình với các cơ quan cấp trên về các điều kiện bảo đảm chất lượng, các kết quả hoạt động, tình hình thực hiện các cam kết và tài chính của trường.

- Giới thiệu nhân sự hiệu trưởng, phó hiệu trưởng để thực hiện quy trình bổ nhiệm theo quy định. Kiến nghị cơ quan thẩm quyền miễn nhiệm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng.

Thứ hai, một số nhận xét và đề xuất:

Một là
, nhận xét:

- Như đã nêu, tổ chức Hội đồng chỉ thích hợp và cần thiết khi lựa chọn cơ chế điều phối tự quản.

Theo cơ chế này, chủ sở hữu của trường đại học công lập là chủ sở hữu cộng đồng, không phải chỉ có cơ quan chủ quản mà còn có cả các giáo chức, cán bộ công nhân viên, sinh viên, giới tuyển dụng, nhà tài trợ, trường bạn, người đóng thuế, người dân trong vùng…

Còn Hội đồng trường chính là người đại diện cho chủ sở hữu cộng đồng nên phải là tổ chức quyền lực cao nhất của trường đại học, phải có nhiều thành viên đại diện cho các nhóm lợi ích có liên quan (stakeholders) và phải làm việc theo nguyên tắc đưa ra các nghị quyết tập thể.

Phải tìm ra lý do vì sao Hội đồng trường tốt như vậy mà không phát huy hiệu quả? ảnh 5

Hiệp hội gửi kiến nghị 10 điểm về giáo dục đại học lên Thủ tướng

Rõ ràng nếu tuân theo cơ chế này thì sẽ không còn khái niệm “Bộ chủ quản”, như đã được nêu trong Nghị quyết 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020.

Việc vẫn tồn tại “Bộ chủ quản”, tức là vẫn khẳng định sự tồn tại song hành mà thực chất là đóng vai trò quyết định của cơ chế kiểu tập quyền (Hierarchical) làm cho các hội đồng trường đã thành lập hoạt động rất khó khăn, mang tính hình thức và buộc phải chuyển dần qua chức năng tư vấn.

- Đối với các trường đại học công lập, chủ sở hữu của trường là cộng đồng.

Do đó Hội đồng trường với tư cách đại diện cho cộng đồng, để có được các quyết định khách quan phản ánh đúng ý nguyện của cộng đồng, thì trong thành phần của nó phải có rất nhiều thành viên độc lập “bên ngoài” nhà trường (xu hướng chung là chiếm đa số).

Một hội đồng trường với thành phần như quy định tại Thông tư số 18/2004/TT-BGD&ĐT ngày 21/6/2004 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, thực chất chỉ đại diện cho ý nguyện của tập thể nhà trường.

Ở hướng dẫn này, có lẽ do vẫn khẳng định cơ chế kiểu tập quyền nên không có đại diện của cơ quan chủ quản trong Hội đồng trường.

Khắc phục điểm yếu đó, tổng số thành viên “ngoài trường” trong Hội đồng trường đã được nâng lên  ở tỷ lệ trên 20% như ở Điều lệ trường đại học 2014 .

- Trong cơ chế Hội đồng, Hiệu trưởng phải được Hội đồng trường tuyển chọn hoặc mạnh hơn phải được Hội đồng trường tuyển dụng để điều hành quản lý nhà trường.

Hiệu trưởng có trách nhiệm tổ chức triển khai các quyết nghị của Hội đồng trường. Hội đồng trường đóng vai trò lãnh đạo, còn Hiệu trưởng làm nhiệm vụ quản lý nhà trường.

Hiệu trưởng không phải là người đại diện toàn quyền của cơ quan chủ quản, lại càng không phải là người sáng tạo ra Hội đồng trường (đứng dưới ô của cơ quan chủ quản).

Hai là, một số đề xuất:

- Chưa nên thành lập đại trà Hội đồng trường ở tất cả các trường đại học. Hội đồng trường chỉ nên thành lập ở những trường đã hội đủ các điều kiện sau:

- Đã thể hiện đủ năng lực để được Nhà nước trao quyền tự chủ trên cơ sở nhận thức đầy đủ trách nhiệm xã hội của mình.

- Đã được giải phóng khỏi cơ chế bộ chủ quản. Sự lãnh đạo của cơ quan chủ quản đối với nhà trường được thực hiện qua vai trò của các đại diện của mình trong Hội đồng trường (chấp nhận có số lượng tham gia chiếm tỷ lệ cao).

Cơ cấu thành viên của Hội đồng trường phải thể hiện tính “cộng đồng” thật sự của chủ sở hữu. Do đó số lượng các thành viên “ngoài trường” trong Hội đồng trường phải chiếm tỷ lệ cao (khoảng 70%).

Ngoài ra để đảm bảo cho Hội đồng luôn có được sự khách quan, các thành viên ngoài trường không được hưởng bất kỳ khoản phụ cấp hoặc lương của nhà trường. Không hạn chế tuổi tác của thành viên Hội đồng trường.

Phải tìm ra lý do vì sao Hội đồng trường tốt như vậy mà không phát huy hiệu quả? ảnh 6

Lý do nào đang cản trở thành lập Hội đồng trường?

- Không nên thành lập Hội đồng trường ở những trường còn duy trì cơ chế kiểu tập quyền, đặc biệt ở những trường trực thuộc các bộ, ngành khác ( tức những trường không trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo ).

Việc cần làm hơn là Chính phủ nên đưa những trường này hoặc về Bộ Giáo dục và Đào tạo, hoặc về Chính phủ địa phương (Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) và xem đó như một khâu quan trọng của cải cách hành chính (như Liên bang Nga và Trung Quốc hiện đang làm).

- Phải phân định rạch ròi vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và của Hội đồng trường đối với Hiệu trưởng và tập thể Ban giám hiệu.

Về vấn đề này nên vận dụng các nguyên tắc đã được áp dụng khi giải quyết các mối quan hệ giữa Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội và Chính phủ.

Việc ở một số trường bố trí Bí thư Đảng ủy trường làm kiêm  luôn Chủ tịch Hội đồng trường cũng là một kinh nghiệm hay, rất đáng tham khảo.

- Cơ cấu và nhân sự của Hội đồng trường ban đầu không nên do Hiệu trưởng đề xuất mà nên được chỉ định bởi một cơ quan có thẩm quyền cấp cao hơn trường đại học (Chính phủ đối với đại học và Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với trường đại học).

Tài liệu tham khảo:

1.    Luật Giáo dục năm 2005

2.    Luật Giáo dục đại học 2013

3.    Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục năm 2005.

4.    Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg ngày 30/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ trường đại học.

5.    Quyết định số 70/2014/QĐ-TTg ngày 10/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ trường đại học.

6.    Thông tư số 18/2004/TT-BGD&ĐT ngày 21/6/2004 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn thực hiện một số điều của Điều lệ trường đại học

7.    Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020.

8.    Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020.

9.    Giáo sư Phạm Phụ – Về cơ chế Hội đồng trường ở trường đại học – tài liệu Hội thảo “Quản lý trường đại học: những nhận thức mới, kinh nghiệm của Việt Nam và thế giới” Hà Nội, 2006.

10.  Điều lệ trường đại học của Liên Xô (1989)

11.  Quy chế Viện đại học Quốc gia của Chính quyền Sài Gòn (1970)

12.  Về Hội đồng quản trị của Viện đại học bang Wayne (Hoa Kỳ)

13.  Đạo luật Viện đại học Hoàng tử vùng Songkla – Thái Lan (1979)

14.  M.P.Lenn – Towards a Quarlity Assurance Infrastructure in Vietnamese Higher Education (2002 - 2003)

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến