Trường Đại học Sao Đỏ tiền thân là Trường Công nhân cơ Điện mỏ thành lập ngày 15/5/1969 và Trường Công nhân Cơ khí Chí Linh thành lập ngày 8/4/1975. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển với nhiều tên gọi khác nhau, ngày 24/3/2010 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 376/QĐ-TTg thành lập Trường Đại học Sao Đỏ trên cơ sở nâng cấp từ Trường Cao đẳng Công nghiệp Sao Đỏ.
Theo báo cáo thường niên năm 2024, sứ mạng của trường là "Đào tạo gắn với nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ. Học đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực tế, nhà trường gắn với doanh nghiệp. Sinh viên ra trường có sức khỏe; năng lực và kỹ năng toàn diện; tự tin, sáng tạo; có việc làm thu nhập ổn định và cơ hội thăng tiến".
Trường có địa chỉ tại số 76, Nguyễn Thị Duệ, KDC Thái Học 2, phường Chu Văn An, Thành phố Hải Phòng. Hiện Nhà giáo ưu tú, Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Nguyên là hiệu trưởng nhà trường.

Tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng, nỗ lực thu hút nhân lực chất lượng cao
Thời gian qua, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được phản ánh của phụ huynh khi tìm hiểu Báo cáo thường niên năm 2024 thực hiện theo Thông tư 09/2024/TT-BGDĐT của Trường Đại học Sao Đỏ có nhiều thông tin chưa rõ. Để có thêm thông tin chính xác, khách quan đến phụ huynh và xã hội, phóng viên đã tiến hành tìm hiểu báo cáo thường niên và liên hệ gửi câu hỏi tới nhà trường nhằm giải đáp một số thông tin.
Theo bảng thống kê đội ngũ giảng viên, viên chức quản lý và nhân viên tại Báo cáo thường niên năm 2024 của Trường Đại học Sao Đỏ cho thấy: tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ của trường năm 2024 là 25,54% (tăng 6,2% so với năm 2023).
Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT về chuẩn cơ sở giáo dục đại học quy định tỷ lệ giảng viên toàn thời gian có trình độ tiến sĩ: “Không thấp hơn 20% và từ năm 2030 không thấp hơn 30% đối với cơ sở giáo dục đại học không đào tạo tiến sĩ”.

Đại diện nhà trường cho biết, năm 2023 tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ là 35/178 giảng viên chiếm 19,7% (nhiều hơn số liệu trong báo cáo thường niên 0,36% - PV). Năm 2024 nhà trường có 4 giảng viên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ và ký hợp đồng lao động toàn thời gian với 8 giảng viên có trình độ tiến sĩ để phục vụ đào tạo các chương trình hiện có của trường; số giảng viên có trình độ tiến sĩ năm 2024 là 47/184 giảng viên chiếm tỉ lệ 25,54%.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ, nhà trường có lộ trình tăng tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ và các biện pháp thu hút giảng viên có trình độ tiến sĩ đáp ứng yêu cầu của Thông tư 01 vào năm 2030, cụ thể như sau:
Tiếp tục có cơ chế, chính sách giao nhiệm vụ và hỗ trợ cho giảng viên tham gia nghiên cứu sinh; có chính sách hỗ trợ học phí đối với viên chức được cử đi nghiên cứu sinh trong nước và nước ngoài; ưu tiên tuyển dụng người có trình độ tiến sĩ, có học hàm giáo sư, phó giáo sư về công tác tại trường; tạo môi trường, điều kiện làm việc tốt, cơ hội thăng tiến cho đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ, học hàm giáo sư, phó giáo sư.
Giảng viên có trình độ tiến sĩ ngoài hưởng lương theo quy định và chế độ thu nhập bổ sung hằng tháng chung cho tất cả cán bộ, giảng viên thì còn được trường trả thêm thu nhập bổ sung bằng 2,5 lần lương cơ sở; thưởng cho viên chức bảo vệ thành công luận án tiến sĩ đúng hạn khối Kỹ thuật là 80 triệu đồng, khối Kinh tế - Xã hội và Nhân văn là 60 triệu đồng; hỗ trợ giảng viên có trình độ tiến sĩ tuyển dụng mới có hệ số lương thấp là 150 triệu đồng và được chi trả hằng tháng trong 5 năm, mỗi tháng 3 triệu đồng và hỗ trợ nhà ở trong ký túc xá của trường (trường hợp ở xa).
Theo bảng Các chỉ số đánh giá về cơ sở vật chất tại Báo cáo thường niên năm 2024 của Trường Đại học Sao Đỏ, tỷ lệ diện tích đất/người học của trường cả năm 2023 và 2024 đều được kê khai là “Từ năm 2030 mới tính”.

Thông tư 01 quy định, từ năm 2030, diện tích đất (có hệ số theo vị trí khuôn viên) tính bình quân trên một người học chính quy quy đổi theo trình độ và lĩnh vực đào tạo không nhỏ hơn 25 m2.
Theo đại diện nhà trường, hiện tại năm 2025 tỉ lệ diện tích đất tính bình quân trên một người học chính quy của trường quy đổi là 257634,2 (m2)/5754 = 44,8 m2/ người học. Tỷ lệ này bảo đảm các tiêu chí của Chuẩn cơ sở giáo dục đại học (≥25 m2).
Tỷ lệ học phần sẵn sàng giảng dạy trực tuyến giảm
Cũng trong bảng các chỉ số về cơ sở vật chất, tỷ lệ học phần sẵn sàng giảng dạy trực tuyến của trường năm 2024 là 53.5% (giảm 24.6%).

Khi được phóng viên đặt câu hỏi, trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số, việc tỷ lệ học phần sẵn sàng giảng dạy trực tuyến giảm có ảnh hưởng gì đến việc sắp xếp thời gian học tập linh hoạt cho sinh viên, đại diện nhà trường thông tin: Từ năm 2020 trở lại, do ảnh ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhà trường đã xây dựng quy chế và tổ chức xây dựng kịch bản giảng dạy các học phần bằng hình thức trực tuyến, hình thức kết hợp để bảo đảm kế hoạch tiến độ đào tạo trong tình hình dịch bệnh.
Tuy nhiên, đến nay không còn dịch bệnh nhà trường thực hiện chuyển hướng ưu tiên, tập trung đầu tư xây dựng, nâng cao chất lượng nguồn học liệu, phương pháp dạy - học trực tuyến, thay vì triển khai dàn trải. Một số học phần cần thời gian để bổ sung, chỉnh sửa tài nguyên giảng dạy theo yêu cầu về học liệu mở, tương tác và đánh giá trực tuyến, nên tạm thời chưa được đưa vào danh mục “sẵn sàng giảng dạy trực tuyến”.
Bên cạnh đó, căn cứ từ ý kiến phản hồi của các bên liên quan về tăng tỉ lệ thực hành, thực nghiệm, trải nghiệm thực tế tại doanh nghiệp để hình thành tốt hơn nữa kỹ năng chuyên môn nghề nghiệp của người học theo định hướng đại học ứng dụng. Vì vậy, nhà trường đã tăng số học phần, thời lượng thực hành thực nghiệm trong cơ sở đào tạo, do đó tỉ lệ học phần lý thuyết giảng dạy trực tuyến giảm. Tỉ lệ học phần thực hành thực nghiệm và học phần lý thuyết có thực hành thực nghiệm tỉ lệ trung bình đạt 50%, các chương trình đào tạo khối STEM đạt tỷ lệ gần 60%.
Việc tỉ lệ học phần sẵn sàng giảng dạy trực tuyến giảm không ảnh hưởng đến việc sắp xếp thời gian học tập linh hoạt cho sinh viên của nhà trường.
Nhà trường đang tích cực ứng dụng chuyển đổi số trong công tác quản lý và hoạt động đào tạo,... tiếp tục đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin, phần mềm, phòng studio phục vụ đào tạo trực tuyến, phát triển học liệu số trên các phân hệ phần mềm PMT-EMS.
Trong năm học 2025-2026 mục tiêu chất lượng của nhà trường đặt ra là tối thiểu 50% các môn học/học phần trong chương trình đào tạo được cập nhật, bổ sung học liệu lên hệ thống phần mềm quản lý học tập trực tuyến (LMS) (đến hết năm 2026 phải đạt 100%). Hệ thống quản lý nội dung học tập trực tuyến (LCMS) để hỗ trợ người học nghiên cứu trước, trong và sau khi giảng viên tổ chức giảng dạy. Vì vậy sinh viên không bị ảnh hưởng gì đến việc sắp xếp thời gian học tập.
Ngoài ra các thủ tục quy trình, hướng dẫn công việc của nhà trường đang được chuyển đổi số hỗ trợ trong công tác, quản trị, quản lý và phục vụ các hoạt động đào tạo. Hằng ngày, 100% sinh viên học tập ở các học phần được điểm danh bằng phương thức quét mã QR-Code.
Hằng năm, nhà trường thường xuyên rà soát, cải tiến chương trình đào tạo theo các bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Trong thời gian tới nhà trường sẽ triển khai kiểm định chất lượng từ 2-3 chương trình đào tạo chu kỳ 2 theo bộ tiêu chuẩn quốc tế (AUN-QA); Một số chương trình mới đào tạo, khi đủ các điều kiện (sau khi có ít nhất 01 khóa sinh viên tốt nghiệp), nhà trường sẽ tiếp tục kiểm định theo bộ tiêu chuẩn hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Tỉ số tăng giảm quy mô đào tạo của 3 năm giảm
Theo bảng chỉ số đánh giá về tuyển sinh và đào tạo, tỷ lệ nhập học trung bình 3 năm của trường và tỉ số tăng giảm quy mô đào tạo 3 năm của năm 2024 đều giảm so với năm 2023. Đặc biệt tỉ số tăng giảm quy mô đào tạo 3 năm của trường năm 2024 giảm khá nhiều so với năm 2023 (giảm từ 25% xuống còn 10,97%).

Lý giải nguyên nhân các chỉ số này giảm, đại diện nhà trường cho hay: Giai đoạn năm 2021-2022, công tác truyền thông của nhà trường hiệu quả chưa cao, chưa thu hút được người học dẫn đến tỉ lệ nhập học thấp (năm 2022 tỉ lệ nhập học là 48,5%). Nhà trường đã có nhiều giải pháp nâng cao chất lượng trong các hoạt động: truyền thông, đào tạo, khoa học công nghệ, hợp tác với các đối tác, hỗ trợ người học,… Do đó, năm 2024 tỷ lệ nhập học là 79,4%.
Căn cứ tiêu chí 5.1 của tiêu chuẩn 5, Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT: Tỉ lệ nhập học trung bình 03 năm của nhà trường năm 2024 là 63,3% {Tỉ lệ nhập học trung bình 03 năm = (Tỉ lệ nhập học năm tính + 02 năm trước liền kề)/3}. Như vậy, tỉ lệ này vượt chuẩn theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (> 50%).
Tuy nhiên, đại diện nhà trường cũng thừa nhận công tác tuyển sinh của trường gặp nhiều khó khăn do nhà trường có vị trí địa lý nằm cách xa các trung tâm kinh tế - văn hóa, xa Thủ đô và các thành phố lớn. Trong khi tâm lý nhiều phụ huynh và sinh viên muốn học ở trung tâm thành phố lớn - nơi có nhiều hoạt động dịch vụ, vui chơi, giải trí, có nhiều việc làm thêm cho sinh viên khi có nhu cầu. Chính vì vậy đây cũng là khó khăn khi thu hút sinh viên theo học tại trường.
Về nguyên nhân tỉ số tăng giảm quy mô đào tạo 3 năm của trường năm 2024 lại giảm khá nhiều so với năm 2023, đại diện nhà trường khẳng định: Tỉ số tăng giảm quy mô đào tạo 3 năm của nhà trường được xác định: tỉ số tăng giảm quy mô đào tạo 3 năm = quy mô đào tạo năm báo cáo chia cho quy mô đào tạo của 3 năm trước – 1 (theo tiêu chí 5.1. của tiêu chuẩn 5 của Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT.
Quy mô của nhà trường trong các năm cụ thể như sau: Năm 2024 là 3155 sinh viên so với năm 2022 là 2843 sinh viên (tăng 312 sinh viên); quy mô năm 2023 quy mô đào tạo là 2762 sinh viên so với năm 2021 quy mô là 2205 sinh viên (tăng 557 sinh viên).
Do vậy, tỉ số tăng giảm quy mô đào tạo 3 năm của nhà trường trong báo cáo xác định cho năm 2024, tỉ số tăng giảm quy mô đào tạo 3 năm = {quy mô đào tạo năm 2024 chia cho quy mô đào tạo của năm 2022}-1 (đạt 10,97%); năm 2023, tỉ số tăng giảm quy mô đào tạo 3 năm = {quy mô đào tạo năm 2023 chia cho quy mô đào tạo của năm 2021}-1 (đạt 25,2%). Tỉ lệ này đạt chuẩn theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (không sụt giảm quá 30% so với 3 năm trước).
Tiêu chí 5.1. Tiêu chuẩn 5, Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT quy định: Tỷ lệ nhập học trên số chỉ tiêu công bố trong kế hoạch tuyển sinh hằng năm, tính trung bình 3 năm gần nhất không thấp hơn 50%; quy mô đào tạo không sụt giảm quá 30% so với 3 năm trước, trừ trường hợp việc giảm quy mô nằm trong định hướng phát triển của cơ sở giáo dục đại học.