Rà soát, cải tiến chương trình để nâng cao chất lượng đào tạo đại học

14/06/2024 06:44
Lưu Diễm
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Kiến thức của một môn học ở thời điểm này có thể là kiến thức chuyên ngành, nhưng ở thời kỳ khác thì lại trở thành kiến thức chung tổng quát.

Năm 2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Thông tư 17/2021/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về chuẩn chương trình đào tạo; xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học.

Theo Thông tư này, chương trình đào tạo đại học gồm 120 tín chỉ, chương trình đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ bậc 7 gồm 150 tín chỉ (chưa bao gồm khối lượng Giáo dục thể chất, Giáo dục Quốc phòng - An ninh).

Với sự thay đổi không ngừng của các ngành nghề, lĩnh vực, trường đại học cũng đổi mới các nội dung học phần, tỷ trọng giữa kiến thức chung và kiến thức chuyên ngành.

Việc này được thực hiện nhằm bám sát với yêu cầu thực tế, tăng độ thích ứng với công việc của sinh viên khi ra trường, tạo ra thế hệ người học có kiến thức, kỹ năng và thái độ phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động và các nhà tuyển dụng.

Điều chỉnh linh hoạt nội dung toán học

Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Tô Văn Phương - Trưởng phòng Đào tạo, Trường Đại học Nha Trang cho biết: Sự điều chỉnh nội dung yêu cầu kiến thức Toán học tăng giảm khác nhau tùy theo lĩnh vực đào tạo. Trước đây, chương trình giáo dục tổng quát chỉ có 2 học phần về toán học là Đại số tuyến tính và Giải tích với 5 tín chỉ.

Theo chu kỳ tổ chức đánh giá, rà soát và cập nhật, chương trình hiện hành có 3 học phần Toán 1, 2, 3 với tổng cộng 8 tín chỉ. Tuy nhiên, chỉ sinh viên nhóm ngành kỹ thuật công nghệ mới bắt buộc học đủ 3 học phần. Khối ngành kinh tế chỉ bắt buộc 1 học phần. Sinh viên khối ngành du lịch, ngoại ngữ và luật không bắt buộc học toán.

Như vậy, với việc điều chỉnh này, sinh viên nhóm ngành kỹ thuật công nghệ phải tăng thêm 3 tín chỉ về toán, nhưng giảm ở các ngành khác. Riêng với ngành kỹ thuật, ngoài các học phần Toán đại cương, còn có thêm Toán ứng dụng theo từng ngành. Nhà trường không gọi tên học phần là Toán cao cấp nhưng các học phần này được xây dựng trên nền tảng của Toán cao cấp và Toán ứng dụng theo đặc thù các ngành.

Trường Đại học Nha Trang điều chỉnh chương trình đào tạo của nhóm ngành kỹ thuật công nghệ tăng thêm 3 tín chỉ về toán, nhưng giảm ở các ngành khác. Ảnh: website nhà trường.
Trường Đại học Nha Trang điều chỉnh chương trình đào tạo của nhóm ngành kỹ thuật công nghệ tăng thêm 3 tín chỉ về toán, nhưng giảm ở các ngành khác. Ảnh: website nhà trường.

Bên cạnh đó, Tiến sĩ Tô Văn Phương cũng cho biết, Trường Đại học Nha Trang là cơ sở đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực nên việc tổ chức các môn học giáo dục đại cương và giáo dục tổng quát, trong đó có môn về toán học cần phải có sự linh hoạt, phân bố hợp lý nhằm phục vụ tốt nhất cho ngành và lĩnh vực đào tạo.

Còn đối với Trường Đại học Duy Tân, Tiến sĩ Võ Thanh Hải - Phó Hiệu trưởng nhà trường chia sẻ, cấu trúc chuẩn chung của mỗi chương trình đào tạo bao gồm: khối học phần đại cương, học phần ngành, chuyên ngành, nhóm học phần tự chọn và học phần tốt nghiệp. Đó là “xương sống” của một chương trình đào tạo khi xây dựng.

Tỷ lệ phân bổ giữa các khối kiến thức trong khung chương trình do hội đồng của mỗi cơ sở đào tạo xây dựng. Thông thường, kiến thức chuyên ngành chiếm khoảng 20-25% và kiến thức ngành là khoảng 30% trong tổng số tín chỉ của chương trình đào tạo.

Đáng chú ý, học phần về toán học được điều chỉnh linh hoạt theo định hướng riêng của mỗi cơ sở đào tạo. Với Trường Đại học Duy Tân, Toán cao cấp trong khối kiến thức đại cương vẫn là môn học bắt buộc dành cho tất cả các sinh viên và Toán ứng dụng nằm trong khối kiến thức cơ sở ngành.

Tiến sĩ Võ Thanh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Duy Tân. Ảnh: website nhà trường.
Tiến sĩ Võ Thanh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Duy Tân. Ảnh: website nhà trường.

Tuy nhiên, tùy theo lĩnh vực đào tạo khác nhau, mà sinh viên học loại Toán cao cấp khác nhau. Ví dụ, lĩnh vực kinh doanh và quản lý sẽ học Toán cao cấp C1, 2; lĩnh vực máy tính và công nghệ thông tin học Toán cao cấp A1, 2, 3. Còn phần Toán ứng dụng sẽ tương ứng với ngành đào tạo riêng như công nghệ thông tin, điện tử,…

Trước đây, khối ngành kỹ thuật công nghệ đào tạo số lượng tín chỉ về Toán học ít hơn. Sau khi tái cấu trúc lại, nhà trường tăng thêm số tín chỉ cho các khối ngành này thêm 2 tín chỉ nữa để tương thích với chương trình giáo dục.

Theo Tiến sĩ Võ Thanh Hải, kiến thức cơ bản đóng vai trò rất quan trọng, là nền tảng của tất cả các loại kiến thức khoa học khác, là cơ sở để người học phát triển bản chất của mỗi lĩnh vực, từ đó có thể nghiên cứu chuyên sâu sau này. Sinh viên tốt nghiệp ra trường sẽ không được học lại những kiến thức cơ bản đó, mà phần lớn tiếp xúc với kiến thức ngành và chuyên ngành tại doanh nghiệp.

Vì vậy, trong chương trình đào tạo, nhà trường cần trang bị nền tảng các kiến thức khoa học cơ bản vững chắc, nhằm tạo “bệ phóng" cho các em sinh viên có khả năng tự nghiên cứu thêm sau này. Bởi lẽ, người học sau khi tốt nghiệp bậc đại học không chỉ cần làm tốt trong lĩnh vực của mình, mà còn phải có năng lực tạo ra tri thức mới, nghiên cứu khoa học và phát triển nghề nghiệp.

Cân đối tỷ trọng khối kiến thức cơ sở ngành và chuyên ngành

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Quốc Bảo - Phó Giám đốc Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh cho hay, trong những năm vừa qua, cơ sở đào tạo luôn đổi mới, cải tiến nội dung chương trình đào tạo nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của sinh viên.

Để thích ứng với chiến lược phát triển đa ngành và bền vững của Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh và đáp ứng phù hợp với nhu cầu của nhà tuyển dụng, việc xây dựng tỷ trọng, kết cấu giữa các khối kiến thức chung, cơ sở ngành và chuyên ngành cần được định hướng đảm bảo chuẩn đầu ra, người học sau khi ra trường đạt chuẩn kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ và tiệm cận với chất lượng quốc tế.

Có thể thấy những kiến thức và thuật ngữ mà trước đây vốn không phổ biến hoặc chỉ là chuyên ngành hẹp của một số lĩnh vực đặc thù, thì ngày nay, nó đã trở thành vốn hiểu biết chung, kỹ năng chung mà bất kỳ một nhân lực trình độ cao nào cũng cần nắm bắt để có thể vận dụng vào cuộc sống và xử lý công việc của mình.

Ví dụ, kiến thức ứng dụng về phần mềm trí tuệ nhân tạo AI không còn là kiến thức riêng của ngành Công nghệ thông tin hay ngành Khoa học máy tính nữa, mà đã dần trở thành kiến thức chung của tất cả ngành học trong xã hội hiện nay.

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Quốc Bảo - Phó Giám đốc Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website nhà trường.
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Quốc Bảo - Phó Giám đốc Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website nhà trường.

Chính vì vậy, kiến thức của một môn học ở thời điểm này có thể là kiến thức chuyên ngành, nhưng ở thời kỳ khác thì lại trở thành kiến thức chung tổng quát. Đó là lý do Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và nhiều trường đại học nói chung ở nước ta cũng như trên thế giới phải liên tục đổi mới các nội dung học phần, tỷ trọng giữa kiến thức chung và kiến thức chuyên ngành.

Thực chất, không phải mới đây xu hướng này mới được hình thành, mà nó vốn dĩ đã được nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới tiếp cận từ lâu. Các cơ sở đào tạo đó có thể gọi những học phần cơ sở ngành là “môn học chung”, “môn tổng quát”, “môn cốt lõi”, “môn bắt buộc”,...

Cụ thể, tại Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua, chương trình đào tạo của nhà trường được bổ sung thêm kiến thức về khoa học dữ liệu, kỹ năng mềm và gần đây là học phần về tâm lý học cơ bản, tư duy thiết kế, phát triển bền vững,... Đây là những kiến thức nhằm trang bị bài bản cho người học khả năng đáp ứng tốt yêu cầu của doanh nghiệp, thị trường lao động để hoàn thiện bản thân hơn, tạo động lực tự học, tự nghiên cứu, tự đổi mới sáng tạo, tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế.

Lý giải về vấn đề đưa môn Tâm lý học cơ bản vào chương trình giảng dạy, Phó Giám đốc Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, các em sinh viên nắm bắt được tâm lý của khách hàng, đối tác, thậm chí là đồng nghiệp và lãnh đạo của mình là một lợi thế trong lĩnh vực kinh doanh, kinh tế. Kể cả khi người học hiểu biết về tâm lý của bản thân cũng sẽ giúp cân bằng, xử lý tốt hơn giữa cuộc sống, công việc, gia đình và những vấn đề của cá nhân.

“Dự kiến trong tương lai, khối kiến thức chung của nhà trường chú trọng hơn về trí tuệ nhân tạo và tư duy thiết kế. Với mong muốn thiết kế ở đây không chỉ bó hẹp về lĩnh vực mỹ thuật, kiến trúc; mà thiết kế còn phản ánh tư duy của mỗi người học có thể định hình ra hệ thống các giải pháp, phương án tích hợp xử lý công việc, phục vụ cho chuyên ngành và bồi dưỡng các giá trị chân thiện mỹ.

Đó là những giá trị cốt lõi mà bất kì sinh viên nào sau khi tốt nghiệp Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đều cần hoàn thiện để trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình”, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Bảo cho biết.

“Trong nhiều năm qua, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh dần thay thế những môn học cứng nhắc, nặng về lý thuyết, không còn phù hợp với định hướng phát triển nghề nghiệp hiện nay bằng những học phần mang “hơi thở của thời đại”, hội nhập với xu thế phát triển của thế giới. Triết lý đào tạo của nhà trường vừa phải đáp ứng được những quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; vừa phải hấp dẫn, bổ ích, gắn liền với chiến lược tái cấu trúc cơ sở đào tạo đa ngành bền vững và phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động, chuẩn đầu ra của quốc tế. Từ đó, chương trình đào tạo cần đảm bảo dung hoà tỷ trọng tối ưu giữa môn chuyên ngành và cơ sở ngành”.

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Quốc Bảo chia sẻ.

Cùng chia sẻ về vấn đề này, Tiến sĩ Võ Thanh Hải cho rằng: Yếu tố cốt lõi vẫn là đảm bảo tăng cường đào tạo khối kiến thức đại cương và cơ sở ngành. Nếu các em sinh viên lĩnh hội vững chắc nhóm kiến thức này thì việc tiếp thu khối chuyên ngành sẽ thuận lợi hơn. Ngược lại, nếu kiến thức đại cương hay cơ sở ngành còn mơ hồ, thì người học khi đi sâu vào chuyên ngành mang tính diện rộng hay có tính mới sẽ dễ thiếu hụt kiến thức để thực hiện.

Trên thực tế, khi thực hiện khảo sát, đánh giá kiểm tra năng lực về toán học của các sinh viên mới vào trường trong một số lĩnh vực như công nghệ, xây dựng, kỹ thuật phần mềm, khoa học máy tính, điện - điện tử,...; những sinh viên nào còn yếu về kiến thức toán học sẽ thường chậm tiến độ theo kịp các học phần cơ sở ngành và chuyên ngành hơn. Ngược lại, nhóm sinh viên có lượng kiến thức toán học ổn định sẽ dễ dàng lĩnh hội, tiếp cận tiến bộ các môn chuyên ngành nâng cao sau này hơn.

Từ kết quả phân tích khảo sát, Trường Đại học Duy Tân quyết định tái cấu trúc chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn mới, bổ sung trực tiếp hàm lượng kiến thức toán học nhằm trang bị thêm kiến thức nền tảng cho các nhóm ngành như điện - điện tử, khoa học máy tính, công nghệ thông tin, tài chính - kinh tế,...

Trường Đại học Duy Tân quyết định tái cấu trúc chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn mới, bổ sung hàm lượng kiến thức toán học nhằm trang bị kiến thức nền tảng cho sinh viên. Ảnh: website nhà trường..
Trường Đại học Duy Tân quyết định tái cấu trúc chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn mới, bổ sung hàm lượng kiến thức toán học nhằm trang bị kiến thức nền tảng cho sinh viên. Ảnh: website nhà trường..

Còn đối với Trường Đại học Nha Trang, Tiến sĩ Tô Văn Phương cho biết, cấu trúc chương trình đào tạo được xây dựng, điều chỉnh như sau: tỉ lệ khối giáo dục đại cương, tổng quát (chiếm từ 35-40%); khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp là đại cương, cơ sở ngành và chuyên ngành (chiếm từ 60-65%).

Lý do chính đầu tiên bởi những quy định thay đổi của cấp trên về chuẩn chương trình đào tạo, theo đó nhà trường rà soát, cập nhật và xây dựng lại nội dung kiến thức nhằm đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra của Khung trình độ quốc gia (VQF) và quy định của Chuẩn chương trình đào tạo.

Thứ hai, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, nhà trường là cơ sở đào tạo đa ngành các nhóm ngành kỹ thuật, công nghệ, thủy sản cho đến nhóm ngành luật, kinh tế, kế toán, quản lý, du lịch,… Vì vậy, các khối kiến thức đại cương, nhất là toán học cần phải cân đối hài hòa, đảm bảo tính hệ thống, phù hợp với sự cần thiết trong thực tiễn.

Ngoài ra, cập nhật chương trình theo hướng tinh gọn, giảm bớt những môn học có nội dung không quá quan trọng sẽ bớt áp lực cho tổ chức đào tạo và vấn đề tích lũy của sinh viên.

Đặc biệt, theo đánh giá của tổ chức đào tạo cho thấy, một số em sinh viên còn khá hạn chế trong việc trình bày, diễn đạt thông tin, tư duy logic, giải quyết vấn đề, kỹ năng làm việc nhóm,…

Vì vậy, trường đã xây dựng 2 môn học được coi là đặc trưng của Trường Đại học Nha Trang. Đó là học phần Ngôn ngữ học thuật (3 tín chỉ) giúp trang bị kiến thức và kỹ năng xử lý, diễn đạt ngôn ngữ, trình bày văn bản khoa học, báo cáo,…; và học phần Tư duy phản biện (3 tín chỉ) giúp trang bị kiến thức, kỹ năng về khả năng phân tích, nhận định, đánh giá các luận điểm để nâng cao khả năng tư duy độc lập trong học tập, nghiên cứu.

Chương trình đào tạo phải tương thích với chuẩn đầu ra và triết lý giáo dục

Theo Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Quốc Bảo, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh luôn kiên định và quyết tâm theo đuổi triết lý giáo dục là đào tạo người học “thực học, thực tài và có kiến thức vừa rộng, vừa sâu”.

“Vừa rộng” có nghĩa là các em sinh viên có được những hiểu biết về nền tảng, được rèn luyện khả năng tự nghiên cứu, tự trang bị cho mình kỹ năng học tập và làm việc mà không cần phải dựa quá nhiều vào thầy cô, sách vở, trường lớp. Để sinh viên có được khối kiến thức rộng, nhà trường phải đào tạo những môn học mang tính tổng quát và nền tảng cơ bản.

“Vừa sâu” có nghĩa là sau khi các em lĩnh hội được những nội dung kiến thức cơ sở, sinh viên sẽ được học về chuyên ngành chuyên sâu. Nó cung cấp cho người học những hiểu biết để giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực mà các em theo đuổi.

Việc thay đổi kết cấu chương trình đào tạo giữa các học phần cơ sở ngành và chuyên ngành của Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh là nhằm hiện thực hóa triết lý đào tạo đó. Chính vì vậy, ngay từ những năm học đầu tiên, người học được lĩnh hội ngay những môn học tạo ra cho các em sự hứng khởi, bắt kịp xu hướng thị trường lao động, công nghệ tiên tiến và thực sự gắn liền với định hướng nghề nghiệp tương lai.

Nhà trường không mong muốn các em sinh viên năm nhất - những người vừa tốt nghiệp bậc trung học phổ thông, đang háo hức ngồi trên ghế giảng đường đại học mà phải tiếp thu những kiến thức quá chung chung, khô cứng, nặng về mặt lý thuyết suông, làm giảm đi đam mê, nhiệt huyết tuổi trẻ của các em.

Ngoài ra, nhà trường thực hiện “tối ưu hóa, tối đa hóa” các hoạt động trải nghiệm của mỗi cá nhân người học để sinh viên trở thành phiên bản tốt nhất của mình, phát huy những thế mạnh riêng của bản thân cũng như sở thích và thị hiếu riêng.

Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện “tối ưu hóa, tối đa hóa” hoạt động trải nghiệm của mỗi người học để phát huy những thế mạnh riêng của bản thân. Ảnh: website nhà trường.
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện “tối ưu hóa, tối đa hóa” hoạt động trải nghiệm của mỗi người học để phát huy những thế mạnh riêng của bản thân. Ảnh: website nhà trường.

Tiến sĩ Võ Thanh Hải cho hay, hiện nay, việc đổi mới phương pháp giảng dạy cũng đóng vai trò then chốt. Các trường cần rà soát nội dung kiến thức của mỗi học phần nhằm tương thích với chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo. Điều quan trọng là cần tránh trùng lặp kiến thức giữa các học phần với nhau, dẫn tới số giờ dạy tuy nhiều nhưng thực chất lượng kiến thức lại không đủ.

Có thể nói, đó chính là “hồn cốt” của việc triển khai một chương trình đào tạo. Chúng ta cần khơi dậy ở người học tính đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực nghiên cứu, chủ động tích lũy của người học sau khi tốt nghiệp.

Bên cạnh đó, việc ứng dụng triệt để công nghệ thông tin trong phương pháp học tập và giảng dạy cũng cần được phát huy. Trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay, chúng ta cần bắt kịp sự phát triển của tri thức nhân loại. Nếu giảng viên chỉ giảng dạy theo cách thức truyền đạt truyền thống, thì người học sẽ khó theo kịp những thay đổi mạnh mẽ của thế giới như hiện nay.

Đối với Trường Đại học Duy Tân, các nhóm ngành kỹ thuật được kiểm định theo chuẩn APEC trên thế giới. Để đảm bảo yêu cầu của tiêu chuẩn này, cơ sở đào tạo vừa phải định hướng dựa trên nền tảng thực tiễn, vừa phải đảm bảo quy chuẩn kiểm định quốc tế với tỷ lệ kiến thức phù hợp nhất định.

Mục tiêu của đào tạo đại học không chỉ hướng tới khả năng biết làm nghề sau khi ra trường, mà còn cần có khả năng “tái tạo” tri thức mới để tự nghiên cứu. Vì vậy, kiến thức nền tảng về khoa học cơ bản rất quan trọng, cần được đào tạo bài bản ở trường đại học. Còn phần lớn những kiến thức chuyên ngành sẽ liên tục được cập nhật thêm trong quá trình làm nghề mai sau.

Theo Tiến sĩ Võ Thanh Hải, những năm gần đây, Trường Đại học Duy Tân được các doanh nghiệp đánh giá cao và hội ý ủng hộ chương trình đào tạo đảm bảo chất lượng. Các doanh nghiệp không cần phải đào tạo lại những kiến thức cơ bản cần thiết về toán học và tư duy logic cho người học. Còn kiến thức chuyên ngành phụ thuộc vào mỗi doanh nghiệp sẽ có những đặc thù công việc riêng mà người học sẽ được rèn luyện dần khi bước chân vào thị trường lao động.

Lưu Diễm