Kết quả kiểm định chất lượng giáo dục là căn cứ để trao thêm các quyền tự chủ cho trường đại học (tự chủ mở ngành đào tạo, liên kết đào tạo với nước ngoài,...). Các văn bản dưới luật cũng mở rộng khi coi việc đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục là điều kiện xác định chỉ tiêu tuyển sinh, xác định học phí theo định mức kinh tế - kỹ thuật.
Từ những thuận lợi mà kiểm định chất lượng giáo dục mang lại, thời gian qua, việc bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục luôn được các cơ sở giáo dục đại học quan tâm, nhất là kiểm định chất lượng đối với chương trình đào tạo.
Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) quy định chương trình đào tạo phải thực hiện kiểm định định kỳ gồm: các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành đào tạo giáo viên, khoa học sức khỏe và pháp luật; còn các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành/lĩnh vực khác do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định.
Một số ý kiến bày tỏ sự băn khoăn rằng nhóm ngành/lĩnh vực nào cũng quan trọng, vậy nên cần thiết phải được kiểm định định kỳ, hoặc quy định một tỷ lệ chương trình đào tạo trong nhóm ngành/lĩnh vực khác phải được kiểm định chất lượng theo định kỳ. Có như vậy mới giúp cho các trường có cơ sở để cải tiến chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng, cũng như có thêm các quyền tự chủ.
Chương trình đào tạo ở các nhóm ngành đều được kiểm định chất lượng theo định kỳ
Chia sẻ với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Nam - nguyên Giám đốc Đại học Đà Nẵng, người từng đảm nhận vai trò trưởng đoàn của nhiều đoàn đánh giá ngoài về kiểm định chất lượng giáo dục cho rằng, kiểm định chất lượng giáo dục đối với chương trình đào tạo giúp các cơ sở giáo dục đại học nhận diện những tồn tại, để có cơ hội rà soát, hoàn thiện và nâng cao chất lượng đào tạo, từ đó khẳng định vị thế, học hiệu của nhà trường trong xã hội.

Thực tế, ở các quốc gia có nền giáo dục tiên tiến, họ đã và đang tiếp tục xây dựng văn hóa kiểm định chất lượng một cách sâu rộng, nhất là trong bối cảnh hội nhập. "Vậy tại sao ở Việt Nam, sau những nỗ lực, chúng ta mới hình thành được văn hóa kiểm định bước đầu thì nay lại đang có dấu hiệu thay đổi, loại bỏ cơ chế này?" - thầy Nam chia sẻ.
Ngoài các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành đào tạo giáo viên, khoa học sức khỏe và pháp luật, thầy Nam bày tỏ, các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành/lĩnh vực khác cũng cần được kiểm định chất lượng theo định kỳ, nhằm tạo hệ thống và trên cơ sở đó nhà trường chỉnh sửa, nâng cao chất lượng chương trình đào tạo từ kết quả đánh giá ngoài.
Cùng chia sẻ, Giáo sư, Tiến sĩ Đào Văn Hùng - nguyên Giám đốc Học viện Chính sách và Phát triển cho rằng chúng ta cần thiết phải kiểm định chất lượng giáo dục theo định kỳ đối với các chương trình đào tạo. Tuy nhiên, các chương trình đào tạo trong cùng một nhóm ngành thường có sự tương đồng nhất định. Vậy nên có thể quy định kiểm định định kỳ chất lượng chương trình đào tạo trong nhóm/lĩnh vực với một tỷ lệ nhất định.
Một trường đại học có khoảng 50 chương trình đào tạo, thì ít nhất cũng phải kiểm định chất lượng của khoảng ⅓ chương trình. Còn nếu chương trình đào tạo không được kiểm định theo một tỷ lệ bắt buộc thì nhà trường đó có thể thiếu sót và khó kiểm soát chất lượng của cả 50 chương trình đào tạo.

Trong bối cảnh giáo dục đại học ngày càng hội nhập, thầy Hùng cho rằng kiểm định chất lượng đối với chương trình đào tạo không nên bị giới hạn trong một vài nhóm ngành, lĩnh vực. Kiểm định chất lượng chương trình đào tạo để đảm bảo tính chuẩn mực trong thiết kế chương trình đào tạo và tổ chức dạy học. Chính từ những kết quả kiểm định chất lượng, các trường có thể so sánh, học hỏi thay vì tự đánh giá một cách chủ quan và rời rạc.
Hơn nữa, việc công nhận văn bằng lẫn nhau đang được khuyến khích trong bối cảnh thúc đẩy liên thông và hợp tác nên không thể tách rời hoạt động kiểm định chất lượng chương trình đào tạo.
Giả sử, có 10 trường đại học công nhận văn bằng lẫn nhau, vậy dựa vào đâu để công nhận? Cần phải dựa trên cơ sở là các trường đại học và chương trình đào tạo của các trường đó được kiểm định chất lượng hay chưa, để bảo đảm tính nhất quán, có sự so sánh trong cùng nội dung và cấu trúc chương trình.
“Nếu không được kiểm định chất lượng chương trình đào tạo thì rất khó khăn cho việc công nhận văn bằng lẫn nhau" - thầy Hùng nói. Các trường khi đó phải tự tiến hành so sánh, tự đánh giá nhưng lại thiếu chuẩn chung và không được khách quan.
Chỉ một số nhóm ngành phải kiểm định định kỳ sẽ hình thành tâm lý phân biệt ngành học
Trước một số quan điểm cho rằng chi phí để kiểm định chương trình đào tạo quá tốn kém, thầy Hùng đánh giá đây là khoản đầu tư hoàn toàn hợp lý. Chúng ta không thể lấy chi phí làm lý do để trì hoãn quá trình kiểm định chất lượng giáo dục đối với chương trình đào tạo, bởi rõ ràng là những lợi ích từ việc đánh giá độc lập mang lại thường lớn hơn rất nhiều. Trên cơ sở việc chương trình đào tạo đạt chuẩn kiểm định chất lượng, nhà trường không chỉ có thêm các quyền tự chủ mà còn nâng cao uy tín, củng cố niềm tin của công chúng, và tự tin trong cách tiếp cận đào tạo.
Trong khi đó, thầy Nam cho biết, chi phí để kiểm định chất lượng của một chương trình đào tạo theo chu kỳ 5 hay 7 năm không phải là con số quá lớn nếu đặt trong tương quan với lợi ích mà hoạt động này mang lại, từ việc nâng cao nội lực đến tăng cường uy tín, đảm bảo tính cạnh tranh của chương trình trong khu vực và quốc tế.
Thực tế cũng cho thấy, một số chương trình đào tạo dù đã hoàn thành chu kỳ kiểm định đầu tiên nhưng vẫn gặp khó trong việc cải tiến theo góp ý của đoàn đánh giá ngoài. Tuy nhiên, nhờ kiểm định chất lượng giáo dục nên nhà trường mới có cơ sở để biết được chương trình đào tạo của trường ra sao.
Việc kiểm định chất lượng chương trình đào tạo ban đầu có thể gây áp lực cho các trường, đặc biệt với những đơn vị có nhiều chương trình đào tạo. Nhưng khi hệ thống được hình thành, văn hóa kiểm định được củng cố và các minh chứng được số hóa, quy trình kiểm định chất lượng giáo dục sẽ ngày càng rút ngắn, tiết kiệm thời gian hơn so với trước đây.

Bên cạnh đó, theo thầy Nam, trong giai đoạn Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, phát triển khoa học và công nghệ, yêu cầu đặt ra với các ngành đào tạo trong lĩnh vực khoa học và công nghệ càng trở nên khắt khe hơn. Do vậy, những chương trình thuộc nhóm ngành/lĩnh vực khoa học và công nghệ cần được chú trọng kiểm định định kỳ để bảo đảm chất lượng đầu ra, đồng thời tạo điều kiện cho sinh viên tiếp cận được với những chuẩn mực quốc tế.
Tại một số quốc gia trên thế giới, kiểm định chất lượng giáo dục là một trong những tiêu chí quan trọng hàng đầu để đánh giá uy tín và chất lượng của một trường đại học. Nếu cơ sở đào tạo không được kiểm định bởi tổ chức kiểm định chất lượng phù hợp, tấm bằng tốt nghiệp do trường đó cấp có thể không được xã hội công nhận. Kết quả kiểm định chất lượng giáo dục đối với chương trình đào tạo cũng là một căn cứ để thí sinh đưa ra quyết định lựa chọn trường học. Chính vì thế, dù không bắt buộc phải kiểm định chất lượng giáo dục nhưng hầu hết cơ sở giáo dục đại học ở các quốc gia đó vẫn tiến hành kiểm định chất lượng chương trình đào tạo.
Ở Việt Nam, thực tiễn cho thấy rằng nếu không có yêu cầu bắt buộc, việc tự nguyện đăng ký kiểm định chất lượng giáo dục đối với chương trình đào tạo theo đúng tinh thần và quy trình là một vấn đề khó. Cần thêm thời gian để hệ thống kiểm định vận hành ổn định, và thực chất, nhà trường chủ động duy trì và nâng cao chất lượng chương trình đào tạo thì mới nên xem xét đến việc nới lỏng yêu cầu kiểm định định kỳ đối với chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành/lĩnh vực khác.
Ngoài ra, thầy Nam cũng cho rằng, nếu chỉ bắt buộc kiểm định định kỳ đối với một vài nhóm ngành, lâu dần sẽ hình thành tâm lý phân biệt rằng ngành này quan trọng, còn ngành kia thì không. Điều đó vô hình trung đi ngược lại tinh thần của kiểm định chất lượng giáo dục đối với chương trình đào tạo là đảm bảo, cải tiến và nâng cao chất lượng giáo dục.
Khoản 1, Điều 38, Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) có nêu:
Điều 38. Kiểm định chất lượng giáo dục đại học
1. Đối tượng phải thực hiện kiểm định định kỳ bao gồm:
a) Các cơ sở giáo dục đại học;
b) Các chương trình đào tạo thuộc nhóm ngành đào tạo giáo viên, khoa học sức khỏe, pháp luật; đối với các chương trình đào tạo thuộc các nhóm ngành, lĩnh vực khác do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định.