Hiện nay, nhiều chuyên gia ủng hộ chủ trương siết chặt đào tạo ngành Luật nhưng cần có lộ trình và kế hoạch giám sát, đánh giá rõ ràng.
Góp phần củng cố tính chuẩn mực và chuyên sâu của đào tạo ngành Luật
Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Luật sư Nguyễn Chí Thiện - Giám đốc điều hành Công ty luật John Nguyễn và Các cộng sự, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ, chủ trương không cho phép các trường đại học không chuyên đào tạo một số lĩnh vực trong đó có ngành luật là một bước đi cần thiết và đúng đắn.
Quy định này sẽ góp phần hạn chế tình trạng lạm phát bằng cấp cũng như chất lượng nhân lực không tương xứng, đồng thời củng cố tính chuẩn mực và chuyên sâu của ngành đào tạo luật. Các trường đại học đa ngành vẫn có thể giảng dạy các môn luật chuyên ngành liên quan đến lĩnh vực đào tạo như Luật Doanh nghiệp, Luật Xây dựng, Luật Sở hữu trí tuệ…mà vẫn bảo đảm sinh viên được trang bị kiến thức pháp lý ứng dụng cần thiết.
Bên cạnh đó, sự phân hóa rõ ràng giữa cơ sở giáo dục đại học chuyên đào tạo luật và đa ngành là xu hướng tất yếu. Chủ trương này không chỉ trả lại “giá trị thực” cho tấm bằng cử nhân luật mà còn giúp nâng cao chất lượng đào tạo, tạo dựng nền tảng nhân lực pháp lý vững mạnh cho tương lai. Đây là bước đi quan trọng nhằm bảo vệ chất lượng giáo dục, gìn giữ sự nghiêm minh của pháp luật và nâng tầm vị thế giáo dục Việt Nam trên trường quốc tế.
Cũng theo Luật sư Nguyễn Chí Thiện, Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, giáo dục luôn là trụ cột quan trọng nhất để thúc đẩy sự phát triển bền vững. Nhân lực chất lượng cao bao gồm nguồn lao động, đội ngũ nghiên cứu, chuyên gia trong mọi lĩnh vực là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của đất nước.
Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, không ít trường vốn không chuyên sâu ở lĩnh vực nhất định vẫn mở ngành đào tạo tràn lan, tìm giảng viên ở nhiều nơi để “lấp chỗ trống". Đáng lo ngại hơn khi một số cơ sở giáo dục gia tăng hình thức đào tạo từ xa cho các ngành đặc thù, trong khi điều kiện học tập sơ sài, tiêu chuẩn đầu ra còn lỏng lẻo.
Bên cạnh đó, các mô hình liên kết mở lớp đào tạo khắp nơi nở rộ, tạo ra môi trường học mà người học chỉ cần có bằng, còn chất lượng chương trình thì chưa được đặt lên hàng đầu. Nếu xu hướng này tiếp tục kéo dài đánh mất chuẩn mực nghề nghiệp, giảm lượng nguồn lao động.
“Trong bối cảnh đó, việc đào tạo ngành luật đòi hỏi độ chính xác, chuyên môn. Với tư cách là người học, nghiên cứu và đang làm việc trong lĩnh vực pháp lý, tôi hiểu rõ rằng pháp luật không đơn thuần là những dòng chữ khô cứng trên văn bản. Pháp luật phản ánh bản chất chính trị, kinh tế và xã hội của một quốc gia.
Vì vậy, nếu thiếu chuẩn mực trong đào tạo hay trong quá trình áp dụng pháp luật đều có thể kéo theo những hệ lụy nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội, quyền và lợi ích của người dân, cũng như sự phát triển bền vững của đất nước.
Khác với nhiều ngành nghề có thể linh hoạt chuyển đổi trái ngành, lĩnh vực pháp lý đòi hỏi nền tảng lý luận vững chắc và được đào tạo bài bản, chuyên sâu. Muốn hành nghề luật, người học bắt buộc phải trải qua quá trình đào tạo chính quy, tích lũy kiến thức nền tảng, hiểu đúng bản chất pháp luật, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước và hệ thống pháp lý”, Luật sư Nguyễn Chí Thiện bày tỏ.
Cùng trao đổi về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Thị An – Đại biểu Quốc hội khóa XIII chia sẻ, việc không cho phép các trường không chuyên đào tạo cử nhân luật, mà chỉ được giảng dạy luật như một môn học phối hợp là hoàn toàn đúng đắn.
Bởi lẽ, luật là ngành đặc thù, đòi hỏi nền tảng pháp lý vững chắc cùng quá trình đào tạo bài bản và chuyên sâu. Việc tập trung đào tạo tại cơ sở chuyên sâu giúp chuẩn hóa và siết chặt tiêu chí đầu ra, đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực.
Nếu chất lượng cử nhân luật yếu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đội ngũ pháp chế của doanh nghiệp, luật sư… . Điều này không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan, doanh nghiệp mà còn có thể gây tác động đến quyền lợi của người dân.
Vì vậy, việc quản lý chặt chẽ, nâng cao chuẩn đầu ra và đảm bảo chất lượng trong toàn bộ quá trình đào tạo phải được đặt lên hàng đầu. Đây là yêu cầu cốt lõi nhằm khắc phục tình trạng mở ngành Luật tràn lan, dẫn đến chất lượng đào tạo không đồng đều giữa các cơ sở.
Cần siết chặt các điều kiện đảm bảo chất lượng nhằm nâng cao công tác đào tạo Luật
Siết điều kiện đào tạo ngành luật là cần thiết và đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp lý. Tuy nhiên, để thực hiện chủ trương này hiệu quả, cần có các giải pháp dựa trên tiêu chí, minh bạch và có lộ trình.
Bàn về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Minh Hùng - Trưởng khoa Khoa Luật và Khoa học Chính trị, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ, Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới đã nêu: “Nâng cao chất lượng đào tạo luật, phát triển các cơ sở đào tạo luật trọng điểm có uy tín; kiên quyết chấm dứt hoạt động của các cơ sở đào tạo luật không bảo đảm tiêu chí, tiêu chuẩn theo quy định. Xây dựng chương trình, tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về xây dựng pháp luật. Xây dựng chuẩn đào tạo đối với các chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp”, điều này hoàn toàn phù hợp với việc siết chặt công tác đào tạo luật nhằm bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực.
Theo thầy Hùng, việc chỉ cho phép các trường chuyên đào tạo luật hiện đang thu hút nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng đến nay, khái niệm “trường chuyên luật” hay “trường không chuyên luật” vẫn chưa được pháp luật hóa. Trong bối cảnh các cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ, nhiều trường vận hành theo mô hình đa ngành, không ít khoa luật tại các trường đa ngành đã đạt kiểm định chất lượng, sở hữu đội ngũ giảng viên có chuyên môn vững và cơ sở vật chất đáp ứng tiêu chuẩn đào tạo.
Chia sẻ quan điểm về việc chỉ được dạy luật như một môn phối hợp, theo thầy Hùng, nếu triển khai việc này trước hết cần phải xem xét chương trình đào tạo của ngành đó có phù hợp để đưa luật vào dạy như một môn phối hợp hay bởi ngành luật bao gồm nhiều chuyên ngành như Luật Kinh tế, Luật Quốc tế; Luật Thương mại quốc tế...
Bên cạnh đó cũng cần xác định rõ nhu cầu của từng lĩnh vực bởi mỗi ngành có mức độ yêu cầu kiến thức pháp luật khác nhau, như ngành an ninh, cảnh sát cần Luật hình sự và Luật Tố tụng hình sự, các ngành kinh tế cần Luật Thương mại và Luật Kinh tế… Việc dạy luật như một môn phối hợp phải căn cứ vào cấu trúc chương trình, số tín chỉ phù hợp và định hướng nhu cầu nhân lực của từng lĩnh vực.
Theo thầy Hùng, việc siết chặt điều kiện mở ngành là cần thiết trong bối cảnh một số cơ sở đào tạo còn yếu kém, mở ngành tràn lan, tuyển sinh ồ ạt nhưng thiếu giảng viên có trình độ cao, cơ sở vật chất không đảm bảo, những nơi như vậy mới thực sự là “không chuyên”. Do đó, vấn đề quan trọng là cơ sở đào tạo đó có đủ năng lực đào tạo, có đội ngũ cơ hữu đạt chuẩn, chương trình được kiểm định và đảm bảo chất lượng đầu ra hay không.
Vì vậy, theo thầy Hùng, thay vì siết theo mô hình trường, cần đánh giá năng lực từng cơ sở khi xem xét mở ngành. Cụ thể, nên rà soát theo bộ tiêu chí, đưa ra điều kiện rõ ràng về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và tỉ lệ việc làm khi ra trường của sinh viên. Ví dụ, theo Khoản 1, Điều 4 của Thông tư 02/2022/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về mở ngành đào tạo đại học nêu rõ: “Có ít nhất 01 tiến sĩ ngành phù hợp là giảng viên cơ hữu, không trùng với giảng viên cơ hữu là điều kiện mở ngành đào tạo trình độ đại học của các ngành khác…” thì có thể quy định đối với ngành luật là 7 - 8 tiến sĩ là giảng viên cơ hữu.
Bên cạnh đó, cần quy định điểm sàn tuyển sinh đại học ngành luật để bảo đảm chất lượng đầu vào, tránh tình trạng tuyển sinh bằng mọi giá khi trường thiếu chỉ tiêu, làm giảm chất lượng đầu vào.
Ngoài ra, hiện Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 678/QĐ-BGDĐT về Ban hành Chuẩn chương trình đào tạo lĩnh vực Pháp luật trình độ đại học và Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học, đây là là căn cứ để các cơ sở đào tạo tự rà soát năng lực và chất lượng.
“Siết chất lượng đào tạo là yêu cầu tất yếu, nhưng quá trình cải cách phải dựa trên các tiêu chí rõ ràng, minh bạch và có lộ trình cụ thể. Mọi thay đổi cần đặt quyền lợi người học lên hàng đầu, đồng thời tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở đào tạo.
Song song đó, việc phát triển đội ngũ chuyên gia pháp lý phải gắn với nhu cầu thực tiễn của xã hội. Chỉ khi đồng thời chuẩn hóa, sàng lọc, nâng cao chất lượng và tái cấu trúc hệ thống đào tạo, ngành luật mới có thể phát triển hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhân lực và chiến lược phát triển nguồn nhân lực pháp lý trong tương lai”, thầy Hùng chia sẻ.