Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn tiền thân là Trường Cao đẳng Kỹ nghệ Dân lập Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập năm 1997. Sau nhiều giai đoạn phát triển với các tên gọi khác nhau, đến ngày 16/03/2005, Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn được đổi tên theo Quyết định số 52/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở Trường Đại học Dân lập Kỹ nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2024, Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn được chuyển đổi loại hình theo Quyết định số 284/QĐ-TTg ngày 06/04/2024 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở Trường Đại học Dân lập Công nghệ Sài Gòn.
Theo thông tin đăng tải trên website, sứ mạng của trường là cơ sở đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, đa hệ, với các trình độ đại học, cao học và nghiên cứu sinh; cung cấp nguồn nhân lực chất lượng có phẩm chất đạo đức, tư duy độc lập, sáng tạo, chuyên môn cao, nghiệp vụ giỏi, văn hóa, ngoại ngữ tốt, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và xu thế toàn cầu hóa của thế giới.
Hiện Phó Giáo sư, Tiến sĩ Cao Hào Thi là Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn.
Theo quy định, từ ngày 19/07/2024, các cơ sở giáo dục thực hiện báo cáo thường niên theo Thông tư số 09/2024/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về công khai trong hoạt động của các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Thời điểm công khai trước 30/6 hàng năm.
Thời gian qua, Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được phản ánh của phụ huynh khi tìm hiểu Báo cáo thường niên năm 2024 của Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn có nhiều thông tin chưa rõ.
Để có thêm thông tin chính xác, khách quan đến phụ huynh và xã hội, phóng viên đã tiến hành tìm hiểu báo cáo thường niên, liên hệ gửi câu hỏi tới nhà trường nhằm giải đáp một số băn khoăn của độc giả.
Tỷ lệ diện tích đất/người học chưa đạt chuẩn, mới có 25% giảng viên có chỗ ngồi làm việc riêng biệt
Theo bảng thống kê đội ngũ giảng viên toàn thời gian theo lĩnh vực đào tạo do Hiệu trưởng Cao Hào Thi ký ngày 11/09/2024 cho thấy, tổng giảng viên toàn thời gian của nhà trường là 348 người, trong đó có 18 giáo sư, 3 phó giáo sư, 55 tiến sĩ, 254 thạc sĩ và 18 cử nhân.
Tuy nhiên, khi tính riêng đội ngũ giảng viên cơ hữu trong độ tuổi lao động chỉ 281 người (thấp hơn 67 người so với tổng giảng viên toàn thời gian).
Đáng chú ý, với giảng viên cơ hữu trong độ tuổi lao động, nhà trường không có giáo sư, phó giáo sư nào, số tiến sĩ cũng chỉ có 24 người.
Theo bảng các chỉ số đánh giá về đội ngũ giảng viên toàn thời gian, tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ của trường năm 2024 đạt 18,63%.
Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn là cơ sở giáo dục đại học không đào tạo tiến sĩ. Theo Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT về Chuẩn cơ sở giáo dục đại học quy định, đối với cơ sở giáo dục không đào tạo tiến sĩ, tỷ lệ giảng viên toàn thời gian có trình độ tiến sĩ: "Không thấp hơn 20% và từ năm 2030 không thấp hơn 30% đối với cơ sở giáo dục đại học không đào tạo tiến sĩ".
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Cao Hào Thi - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn cho biết, trong chiến lược phát triển của trường giai đoạn 2020-2025 và tầm nhìn 2030, nhà trường đã xác định công tác tổ chức, cán bộ là một trong các lĩnh vực trọng tâm cần thực hiện, cụ thể: kiện toàn ban giám hiệu, lãnh đạo các đơn vị theo hướng trẻ hóa đội ngũ, duy trì, ổn định đội ngũ giảng viên cơ hữu theo quy mô đào tạo, tăng tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ, đặc biệt là tiến sĩ trong độ tuổi lao động, giảng viên được nâng cao trình độ ngoại ngữ và đạt chuẩn theo quy định; xây dựng cơ chế tuyển dụng, thu hút và trọng dụng nhân tài, đặc biệt là những cán bộ khoa học và quản lý có uy tín trong và ngoài nước.
Ngoài ra, để đảm bảo các tiêu chuẩn về giảng viên theo Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT, nhà trường cũng luôn chú trọng nâng cao, phát triển đội ngũ nhân sự nên đã triển khai đồng thời các phương án khác nhau và đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.
Với các chính sách động viên, khuyến khích nâng cao trình độ đối với giảng viên, trong những năm gần đây, nhà trường đã nỗ lực nâng tỷ lệ giảng viên có trình độ thạc sĩ từ 50% lên 98%; đảm bảo 100% giảng viên giảng dạy đại học có trình độ từ thạc sĩ trở lên. Từ năm 2022, nhà trường đã triển khai chính sách phát triển đội ngũ có trình độ từ tiến sĩ trở lên thể hiện qua việc nhà trường đã ban hành Quyết định số 85/QĐ-DSG-HCQT ngày 22/04/2022 về việc thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, giảng viên đi đào tạo trình độ tiến sĩ trong nước.
So với báo cáo thường niên năm 2024, hiện tại, trường có 23% giảng viên đạt trình độ tiến sĩ, tăng so với cùng kỳ năm trước, cho thấy nỗ lực nâng cao chất lượng đội ngũ của nhà trường. Ngoài ra, nhà trường hiện có 25 giảng viên trong độ tuổi đang học tiến sĩ trong và ngoài nước. Trong các năm tới, trường sẽ tiếp tục cử thêm các giảng viên trong độ tuổi đi học tiến sĩ; dự kiến mỗi năm, trường sẽ có từ 4-5 giảng viên trong độ tuổi tốt nghiệp tiến sĩ.
Từ nay đến năm 2030, nhà trường sẽ phấn đấu để đạt tỷ lệ giảng viên toàn thời gian có trình độ tiến sĩ là 30%, đáp ứng yêu cầu của Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT. Đồng thời, nhà trường cũng tiếp tục mở rộng môi trường học thuật, tăng cường nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế, qua đó tạo sức hút và động lực cho đội ngũ giảng viên trẻ phát triển lâu dài.
Gần đây, trường đã có 5 cán bộ, giảng viên được bổ nhiệm phó giáo sư; nhà trường đã ban hành chính sách khen thưởng khi giảng viên được công nhận học hàm phó giáo sư.
Thầy Thi chia sẻ thêm, mặc dù đạt được những kết quả trên, nhưng nhà trường vẫn còn gặp thách thức khi một số giảng viên đã có kế hoạch tham gia học tiến sĩ nhưng hầu hết đều gặp khó khăn ở tiêu chuẩn tiếng Anh đầu vào. Giảng viên thường phải mất từ 1-2 năm để học bổ sung tiếng Anh đầu vào. Điều này làm chậm tiến độ phát triển đội ngũ nhân sự của trường.
Bên cạnh đó, khi áp dụng Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT, nhu cầu tuyển dụng giảng viên trình độ tiến sĩ trong độ tuổi lao động của các cơ sở giáo dục đại học tăng cao, nên công tác tuyển dụng nhân sự cũng gặp khó khăn đáng kể. Vì vậy, nhà trường phải luôn điều chỉnh chế độ chính sách ưu đãi đối với một số trường hợp đặc biệt.
Theo bảng Các chỉ số đánh giá về cơ sở vật chất, tỷ lệ diện tích đất/người học của Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn năm 2024 đạt 2,96 m2/người học. Tỷ lệ giảng viên có chỗ làm việc riêng biệt, nhà trường chưa kê khai số liệu.
Thông tư 01 quy định: "Từ năm 2030, diện tích đất (có hệ số theo vị trí khuôn viên) tính bình quân trên một người học chính quy quy đổi theo trình độ và lĩnh vực đào tạo không nhỏ hơn 25 m2. Với trường ở nội thành là không nhỏ hơn 10 m2; ít nhất 70% giảng viên toàn thời gian được bố trí chỗ làm việc riêng biệt".
Chia sẻ về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Cao Hào Thi cho hay, Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn toạ lạc tại địa chỉ số 180 Cao Lỗ, phường Chánh Hưng, thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, các hoạt động của nhà trường tập trung tại cơ sở chính ở tòa nhà khu A, B, C với hơn 19.000 m2 diện tích sàn xây dựng gồm đầy đủ cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ nhu cầu của cán bộ, giảng viên, nhân viên và sinh viên.
Trong đó, giảng viên toàn thời gian được bố trí chỗ làm việc theo tỉ lệ: 25% giảng viên được bố trí chỗ làm việc riêng; 25% giảng viên được bố trí chỗ làm việc tại phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, trung tâm máy tính.
Số giảng viên còn lại sử dụng khu vực làm việc chung của các khoa như phòng làm việc giảng viên, phòng làm việc của cố vấn học tập, phòng giảng viên tại các khu phòng học...
Ngoài ra, nhà trường đã đầu tư xây dựng công trình Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn giai đoạn 4, với tòa nhà khu D gồm 9 tầng (1 trệt + 8 lầu) và 1 tầng hầm có tổng diện tích sàn xây dựng là 19.964,11 m2 với các hạng mục: hội trường - thư viện nghiên cứu khoa học - phòng làm việc - thể dục thể thao trong nhà. Công trình này đã thực hiện xong, đang gấp rút hoàn thiện nội thất, dự kiến đến tháng 06/2026 sẽ chính thức đưa vào sử dụng. Khi đó, giảng viên sẽ có thêm không gian làm việc với đầy đủ trang thiết bị hiện đại.
Tỉ trọng thu từ khoa học - công nghệ bỏ trống
Theo báo cáo thường niên năm 2024, tại bảng các chỉ số đánh giá về hoạt động khoa học và công nghệ cho thấy, tỉ trọng thu khoa học - công nghệ cả hai năm 2023 và 2024 nhà trường chưa kê khai.
Ngoài ra, ở phần các đề tài nghiên cứu khoa học thực hiện trong năm cho thấy, trường chỉ thực hiện 6 đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở với tổng kinh phí 180 triệu đồng, không có đề tài cấp Nhà nước, cấp bộ, tỉnh và đề tài hợp tác với doanh nghiệp trong nước và hợp tác quốc tế.
Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn cho biết, nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ được nhà trường quan tâm và luôn thúc đẩy phát triển. Nhà trường đã và đang tiến hành nhiều công trình nghiên cứu khoa học quan trọng, góp phần tăng cường tri thức khoa học và phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghệ.
Trong năm 2025, nhà trường đã hoàn thành 1 đề tài nghiên cứu khoa học ký kết với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đồng Tháp trị giá hơn 3 tỷ đồng được đánh giá xuất sắc. Ngoài ra, các đơn vị trong trường cũng tăng cường việc hợp tác, chuyển giao công nghệ với các doanh nghiệp dù giá trị chưa đáng kể.
Bên cạnh đó, để đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, từ năm học 2024-2025, nhà trường đã ban hành Quyết định số 57/QĐ-DSG-QLKH ngày 01/03/2025 quy định về khen thưởng bài báo khoa học công bố quốc tế và mỗi năm nhà trường sẽ xét khen thưởng một lần.
Đồng thời, nhà trường đã ban hành Quyết định số 302a/QĐ-DSG-QLKH ngày 01/10/2025 về Quy chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ tại trường. Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học đối với giảng viên trong quy chế này sẽ trở thành một trong các chỉ tiêu xem xét thi đua khen thưởng năm học tại trường và là một trong các nhiệm vụ chính của giảng viên. Trong đó, yêu cầu đối với giảng viên có trình độ thạc sĩ là mỗi giảng viên phải có bài báo hoặc báo cáo khoa học đăng trên tạp chí uy tín.
Ngoài ra, tại bảng kết quả thu chi hoạt động, tổng thu hoạt động của trường năm báo cáo là 233 tỷ đồng. Trong đó, có 229 tỷ đồng là học phí, lệ phí của người học (chiếm 98,3%). Còn lại là nguồn thu khác, không có nguồn thu từ khoa học và công nghệ.
Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghệ Sài Gòn cho biết, để tăng nguồn thu từ các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, nhà trường đang chú trọng phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ từ tiến sĩ trở lên song song với đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học tại trường. Đồng thời, mở rộng việc hợp tác, chuyển giao công nghệ với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Năm 2025, thu từ nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ của trường đã cải tiến nhiều so với cùng kỳ năm trước.
Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn của nhà trường chỉ đạt 44%
Theo bảng các chỉ số đánh giá về tuyển sinh và đào tạo năm 2024, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp của trường đạt 86,31%, nhưng tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đúng hạn chỉ đạt 44%.
Lý giải về nguyên nhân khiến 56% sinh viên còn lại tốt nghiệp không đúng hạn, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Cao Hào Thi cho biết, nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc trường thực hiện siết chặt chuẩn đầu ra và nâng cao yêu cầu tốt nghiệp trong giai đoạn đổi mới chương trình.
Ở các ngành đào tạo kỹ sư, sinh viên phải hoàn thành trên 150 tín chỉ, với nhiều học phần thực hành, thí nghiệm, đồ án và thực tập nghề nghiệp, đòi hỏi thời lượng học tập lớn và mức độ đáp ứng cao hơn trước.
Bên cạnh đó, chuẩn đầu ra ngoại ngữ được áp dụng nghiêm túc theo yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng là yếu tố khiến nhiều sinh viên cần thêm thời gian để hoàn thành đầy đủ điều kiện tốt nghiệp. Nhóm sinh viên tốt nghiệp muộn thường vướng ở các học phần cơ sở - kỹ thuật, các học phần thực hành bắt buộc hoặc chưa đạt chuẩn ngoại ngữ theo mức yêu cầu mới.
Nhà trường đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như tăng cường công tác cố vấn học tập, mở lớp hỗ trợ ngoại ngữ - kỹ năng, tổ chức học kỳ phụ và bố trí linh hoạt tiến độ học tập để giúp sinh viên rút ngắn thời gian hoàn thành các chuẩn đầu ra, đồng thời vẫn đảm bảo chất lượng đào tạo.
Cũng theo bảng các chỉ số đánh giá về tuyển sinh và đào tạo năm 2024, tỷ lệ sinh viên thôi học của trường là 35,93% (năm 2023 là 39,09%).
Theo hiệu trưởng nhà trường, tỷ lệ thôi học của trường năm 2024 là 35,93%, đây là tỷ lệ tính cho toàn khóa học, bao gồm người học nghỉ học ở nhiều giai đoạn khác nhau. Nếu xét riêng tỷ lệ bỏ học năm thứ nhất, chỉ số này của trường là dưới 10%, phù hợp với yêu cầu của Thông tư 01.
Trong khi đó, Tiêu chí 5.2. Thông tư 01 quy định: Tỷ lệ thôi học, được xác định bằng tỷ lệ người học chưa tốt nghiệp mà không tiếp tục theo học hằng năm, không cao hơn 10% và riêng đối với người học năm đầu không cao hơn 15%.
Thầy Thi chia sẻ 4 nguyên nhân chính khiến tỷ lệ thôi học toàn khóa của trường vẫn ở mức cao.
Thứ nhất, nhiều sinh viên chuyển hướng nghề nghiệp hoặc chuyển sang các trường/định hướng đào tạo khác phù hợp hơn.
Thứ hai, một bộ phận sinh viên gặp khó khăn về tài chính, học tập hoặc thiếu kiên trì với ngành đã chọn.
Thứ ba, một số ngành kỹ thuật yêu cầu số lượng tín chỉ lớn, nhiều học phần thực hành - thí nghiệm, dẫn đến sinh viên kéo dài tiến độ hoặc dừng học giữa chừng.
Thứ tư, khóa tốt nghiệp năm 2024 đã nhập học năm 2020, khóa sinh viên này bị ảnh hưởng rất lớn của đại dịch Covid19 từ đó ảnh hưởng đến tỷ lệ bỏ học.
Nhà trường đang triển khai các biện pháp giảm tỷ lệ bỏ học, gồm tăng cường tư vấn hướng nghiệp ngay từ năm nhất; hệ thống cố vấn học tập sát sao; cảnh báo học vụ sớm; hỗ trợ tài chính; tổ chức lớp phụ đạo và học kỳ phụ; đồng thời giám sát tiến độ học tập theo từng học kỳ.
Một trong những nhiệm vụ, giải pháp trong nội dung về hiện đại hóa, nâng tầm giáo dục đại học, tạo đột phá phát triển nhân lực trình độ cao và nhân tài, dẫn dắt nghiên cứu, đổi mới sáng tạo ở Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo có nêu: Triển khai sắp xếp, tái cấu trúc các cơ sở giáo dục đại học; sáp nhập, giải thể các cơ sở giáo dục đại học không đạt chuẩn;...
Tại Quyết định số 452/QĐ-TTg ngày 27/2/2025 Phê duyệt Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ ban hành, đối với định hướng phát triển và phân bố mạng lưới đến năm 2030 có nêu “chấm dứt hoạt động trước năm 2028 và giải thể trước năm 2030 đối với cơ sở giáo dục đại học, phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học không đạt chuẩn hoặc không hoàn thành xác lập vị trí pháp lý theo quy định của pháp luật”.