Bộ GDĐT cần tiếp tục quy định ngưỡng đầu vào ngành sức khỏe để đảm bảo công bằng

30/07/2025 06:28
ĐÀO HIỀN
Theo dõi trên Google News

GDVN - Khi Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định ngưỡng đầu vào sẽ đảm bảo sự công bằng, minh bạch, sàng lọc được thí sinh có năng lực phù hợp với đặc thù ngành học.

Trong quá trình lấy ý kiến về dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), nhiều chuyên gia đề nghị tiếp tục giữ quy định tại Điều 34 của Luật Giáo dục đại học hiện hành đó là: "Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ quy định ngưỡng bảo đảm chất lượng đầu vào đối với ngành đào tạo giáo viên và các ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe có cấp chứng chỉ hành nghề", nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo trong những lĩnh vực đặc thù này.

Vì sao cần giữ ngưỡng đầu vào cho khối ngành sức khỏe?

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hùng – Phó Hiệu trưởng Trường Y – Dược, Đại học Phenikaa nhấn mạnh sự cần thiết phải duy trì ngưỡng bảo đảm chất lượng đầu vào đối với các ngành đào tạo giáo viên và khối ngành sức khỏe có cấp chứng chỉ hành nghề.

Theo thầy, đây là những ngành đặc thù, yêu cầu cao về cả năng lực chuyên môn lẫn phẩm chất đạo đức, nên việc đặt ra ngưỡng đầu vào không chỉ góp phần tuyển chọn được người học phù hợp mà còn đảm bảo chất lượng đào tạo và đầu ra.

Đối với lĩnh vực khoa học sức khỏe vốn có khối lượng kiến thức chuyên sâu nên sẽ đòi hỏi người học phải có nền tảng phổ thông vững chắc. Nếu thiếu sự chuẩn bị tốt từ trước, sinh viên sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình tiếp thu kiến thức, hoặc dễ bị đuối sức trước chương trình học nặng nề.

“Trên thực tế, không ít sinh viên vì lý do này đã phải kéo dài thời gian học hoặc không thể tốt nghiệp đúng hạn”, thầy Hùng chia sẻ.

Từ thực tiễn đó, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hùng cho rằng việc giao Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định ngưỡng bảo đảm chất lượng đầu vào đối với các ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe có cấp chứng chỉ hành nghề là cần thiết và hợp lý. Bởi, khi Bộ đưa ra mức điểm sàn tối thiểu, các trường vẫn có thể tự chủ nâng mức điểm xét tuyển cao hơn tùy theo năng lực và điều kiện đào tạo. Điều này giúp đảm bảo tính công bằng, minh bạch và thống nhất trong toàn hệ thống giáo dục.

Ngược lại, nếu không có ngưỡng chung, một số trường có thể hạ chuẩn đầu vào để tuyển đủ chỉ tiêu, dẫn đến sự chênh lệch về chất lượng sinh viên giữa các cơ sở đào tạo, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực sau này.

thay-hung.jpg
Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hùng – Phó Hiệu trưởng Trường Y – Dược, Đại học Phenikaa. Ảnh: website nhà trường

Đồng quan điểm, Tiến sĩ Lê Viết Nho – Hiệu trưởng Trường Y Dược, Đại học Đà Nẵng cũng cho rằng: Khi đặc thù của khối ngành sức khỏe yêu cầu rất cao về kiến thức chuyên môn, tư duy logic và khả năng tiếp thu sâu, thì việc quy định ngưỡng đầu vào đối với các ngành thuộc lĩnh vực này là hết sức cần thiết và bắt buộc phải có.

Trên thực tế, khối ngành sức khỏe không chỉ liên quan trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe con người, mà còn đòi hỏi người học phải có nền tảng học thuật vững chắc, khả năng tiếp thu lượng kiến thức lớn và áp dụng linh hoạt trong các tình huống thực tế.

Nếu đầu vào không đủ năng lực, người học sẽ gặp khó khăn trong việc theo kịp chương trình đào tạo vốn nặng về lý thuyết và thực hành chuyên sâu. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến kết quả học tập mà còn gây lãng phí nguồn lực đào tạo, tiềm ẩn rủi ro về chất lượng đội ngũ hành nghề sau này.

Do đó, việc đặt ngưỡng đầu vào chính là bước sàng lọc ban đầu, giúp các trường tuyển chọn được những thí sinh có đủ năng lực học tập, đảm bảo chất lượng đào tạo đầu ra và giữ gìn uy tín, chuẩn mực nghề nghiệp trong lĩnh vực đặc thù như y tế.

thay-nho.png
Tiến sĩ Lê Viết Nho – Hiệu trưởng Trường Y Dược, Đại học Đà Nẵng. Ảnh: website nhà trường

Theo thầy Nho, việc giao Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định ngưỡng đầu vào đối với các ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe là hoàn toàn hợp lý và có cơ sở thực tiễn rõ ràng. Bởi Bộ là cơ quan duy nhất nắm giữ dữ liệu tuyển sinh toàn quốc, từ phổ điểm, số lượng thí sinh đăng ký đến năng lực đào tạo của từng trường. Nhờ đó, Bộ có thể xác định mức điểm sàn phù hợp theo từng năm, đảm bảo tính khách quan và sát với thực tế.

Hơn nữa, ngưỡng đầu vào do Bộ quy định chỉ là mức tối thiểu, các trường vẫn có toàn quyền chủ động đưa ra mức điểm cao hơn theo năng lực và định hướng đào tạo riêng. Vì vậy, quy định này không ảnh hưởng đến quyền tự chủ tuyển sinh mà còn giúp thiết lập một mặt bằng chất lượng chung, tránh tình trạng chênh lệch quá lớn giữa các cơ sở đào tạo – điều đặc biệt quan trọng đối với những ngành đặc thù như khối sức khỏe, nơi yêu cầu cao về chuyên môn và trách nhiệm xã hội.

Chất lượng đầu ra không thể chỉ dựa vào đầu vào

Có thể thấy rằng, việc áp dụng ngưỡng đầu vào đã góp phần nâng cao chất lượng tuyển sinh đối với khối ngành sức khỏe, thể hiện qua mặt bằng năng lực đầu vào ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng đầu ra, các cơ sở đào tạo cần chú trọng đồng bộ nhiều yếu tố trong quá trình đào tạo.

Theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải - Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược Hải Phòng, ngành khoa học sức khỏe là lĩnh vực đặc thù, đòi hỏi quá trình tuyển chọn và đào tạo sinh viên phải nghiêm ngặt và đạt chuẩn cao hơn so với nhiều ngành học khác.

Trong bối cảnh đó, việc quy định một ngưỡng đầu vào chung đối với thí sinh ngành sức khỏe là hết sức cần thiết. Ngưỡng này giúp tạo ra sự công bằng và thống nhất giữa các cơ sở đào tạo, dù là trường công lập hay tư thục. Tất cả các trường đào tạo ngành y đều phải tuân thủ ngưỡng đầu vào chung này nhằm đảm bảo chất lượng tuyển sinh và tuyển chọn được những sinh viên có đủ năng lực học tập, cũng như khả năng tiếp thu chương trình đào tạo chuyên sâu và phức tạp của ngành.

Trên thực tế, điểm ngưỡng này không phải là mức cố định mà được điều chỉnh linh hoạt theo từng năm dựa trên kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông của thí sinh trên toàn quốc, nhằm phản ánh sát thực chất lượng đầu vào của mỗi năm học.

Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo - với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, là đơn vị duy nhất có thể tổng hợp và phân tích dữ liệu tuyển sinh toàn quốc để đưa ra ngưỡng điểm phù hợp. Những dữ liệu này bao gồm phổ điểm thi, số lượng thí sinh đăng ký và chất lượng đầu vào của các trường trong từng năm học. Quá trình phân tích và xây dựng ngưỡng điểm được thực hiện một cách khách quan, minh bạch, từ đó tạo cơ sở vững chắc giúp các trường đại học xây dựng tiêu chí tuyển sinh riêng biệt dựa trên mức điểm sàn tối thiểu do Bộ quy định.

Chưa kể trong quá trình xây dựng và điều chỉnh ngưỡng điểm, Bộ Giáo dục và Đào tạo luôn phối hợp chặt chẽ với các trường đại học đào tạo khối ngành sức khỏe để cùng đánh giá, thảo luận và thống nhất mức điểm phù hợp nhất cho từng năm tuyển sinh, nhằm đảm bảo tính khả thi và sát thực tế của ngưỡng điểm đầu vào.

Đặc biệt, Bộ cũng đã áp dụng cơ chế linh hoạt trong việc đặt ngưỡng đầu vào riêng biệt cho các nhóm ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe như Y đa khoa, Răng – Hàm – Mặt, Điều dưỡng… nhằm phù hợp với đặc thù và yêu cầu đào tạo riêng của từng ngành.

“Việc phân chia này giúp cân bằng giữa chất lượng đào tạo và khả năng tiếp nhận của các cơ sở giáo dục, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho thí sinh lựa chọn ngành học phù hợp với năng lực và sở thích”, thầy Khải cho hay.

thay-khai.jpg
Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải - Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược Hải Phòng. Ảnh: website nhà trường

Bên cạnh yếu tố đầu vào, thầy Khải cũng cho rằng để đảm bảo chất lượng đầu ra trong đào tạo lĩnh vực khoa học sức khỏe, các cơ sở giáo dục không thể chỉ dựa vào điểm tuyển sinh, mà cần đồng thời triển khai đồng bộ nhiều yếu tố then chốt trong toàn bộ quá trình đào tạo.

Trước hết, chương trình đào tạo cần được xây dựng bài bản, thường xuyên cập nhật và điều chỉnh để bắt kịp những tiến bộ trong y học hiện đại, đồng thời tham chiếu các chuẩn mực đào tạo quốc tế. Đây là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh giáo dục y khoa đang không ngừng đổi mới, hướng đến chuẩn đầu ra toàn diện cả về kiến thức lẫn kỹ năng.

Thứ hai, phương thức đào tạo cũng cần thay đổi theo hướng lấy người học làm trung tâm, tăng cường tính chủ động và khả năng tự học của sinh viên. Đặc biệt, việc rèn luyện kỹ năng thực hành – nhất là kỹ năng lâm sàng phải được đặt lên hàng đầu, bởi đây là yếu tố cốt lõi trong việc hình thành năng lực khám, chữa và xử lý tình huống nghề nghiệp thực tế cho sinh viên khối ngành sức khỏe.

Tuy nhiên, thực tế quá trình đào tạo khối ngành này đòi hỏi sự đầu tư lớn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, môi trường học tập gắn liền với người bệnh. Chính vì vậy, việc xây dựng được hệ sinh thái đào tạo tích hợp – nơi có đủ bệnh viện thực hành, giảng viên chất lượng cao và phương pháp giảng dạy hiện đại là một bài toán không dễ, đặc biệt với những trường còn hạn chế về nguồn lực.

Do đó, theo thầy Khải, chỉ những cơ sở đào tạo có chiến lược đầu tư bài bản, đồng thời tạo dựng được môi trường học thuật tích cực mới có thể đáp ứng được kỳ vọng về chất lượng đầu ra đối với ngành học đặc thù như khoa học sức khỏe.

“Hiện nay, Trường Đại học Y Dược Hải Phòng đã xây dựng hệ thống liên kết với gần 40 bệnh viện thực hành. Ngay từ cuối năm thứ hai, sinh viên đã được đưa vào môi trường thực tập tại bệnh viện, với thời lượng và cường độ thực hành tăng dần qua từng năm học.

Điều này nhằm đảm bảo sinh viên tích lũy đủ kiến thức thực tế và kỹ năng lâm sàng cần thiết trước khi tốt nghiệp và bước vào nghề nghiệp”, thầy Khải chia sẻ.

phenikaa.jpg
Để đảm bảo chất lượng đầu ra trong đào tạo lĩnh vực khoa học sức khỏe, các cơ sở giáo dục cần đồng thời triển khai đồng bộ nhiều yếu tố. Ảnh: Đại học Phenikaa

Còn theo Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Văn Hùng, trong đào tạo lĩnh vực khoa học sức khỏe, bên cạnh việc kiểm soát chất lượng đầu vào, cần đặc biệt chú trọng đầu tư vào hai yếu tố then chốt: đội ngũ giảng viên và hệ thống cơ sở thực hành. Đây là những điều kiện cốt lõi nhưng cũng luôn là bài toán khó, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và nội lực để xây dựng.

Trước hết, đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn cao, đặc biệt trong các lĩnh vực y – dược hiện vẫn còn thiếu hụt và chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo thực tế tại nhiều trường đại học. Việc thu hút, đào tạo và giữ chân giảng viên chất lượng cao trong lĩnh vực này là một thách thức lớn, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh nguồn nhân lực chất lượng cao giữa các cơ sở đào tạo và bệnh viện.

Thứ hai, hệ thống cơ sở thực hành – đặc biệt là bệnh viện là yếu tố mang tính quyết định với chất lượng đào tạo ngành sức khỏe. Thế nhưng hiện nay, số lượng bệnh viện có khả năng tiếp nhận sinh viên đến thực tập tại Việt Nam vẫn còn rất hạn chế. Thực trạng này đã tạo ra áp lực lớn cho các cơ sở đào tạo, đặc biệt trong việc đảm bảo trải nghiệm thực tiễn và rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên.

phenikaa-2.jpg
Cần thu hút, giữ chân giảng viên chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học sức khỏe. Ảnh: Đại học Phenikaa

Theo thầy Hùng, nếu trường đào tạo khối ngành sức khỏe mà không có bệnh viện thực hành riêng hoặc thiếu sự liên kết chặt chẽ với các cơ sở y tế, việc tổ chức giảng dạy kỹ năng lâm sàng sẽ gặp nhiều khó khăn. Sinh viên không có môi trường để thực hành, tiếp cận bệnh nhân và rèn luyện kỹ năng thực tế, đồng nghĩa với việc đầu ra không thể đạt chuẩn.

Trước những khó khăn đó, thầy Hùng cho rằng các cơ sở giáo dục đại học cần chủ động đầu tư xây dựng hệ thống phòng thí nghiệm mô phỏng và môi trường học tập ảo. Phương án này sẽ giải pháp khả thi và phù hợp với xu thế hiện đại, giúp sinh viên có điều kiện thực hành trong môi trường giả định sát với thực tế lâm sàng, từ đó nâng cao hiệu quả học tập và chuẩn bị tốt hơn trước khi bước vào thực tiễn nghề nghiệp.

“Tại Đại học Phenikaa, nhà trường hiện có lợi thế khi sở hữu bệnh viện riêng, tạo điều kiện chủ động trong việc triển khai các hoạt động thực hành lâm sàng. Đồng thời, trường cũng tích cực mở rộng hợp tác với nhiều bệnh viện ngoài hệ thống, nhằm đa dạng hóa môi trường thực hành cho sinh viên.

Việc có sẵn một bệnh viện nội bộ đã giúp nhà trường linh hoạt hơn trong công tác phối hợp, tổ chức đào tạo, đồng thời kiểm soát tốt chất lượng và tiến độ học tập của sinh viên”, thầy Hùng thông tin.

ĐÀO HIỀN