Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Nghị quyết đưa ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp để nâng tầm giáo dục Việt Nam trong giai đoạn mới.

Đáng chú ý tại nhóm nhiệm vụ giải pháp về đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế sâu rộng trong giáo dục và đào tạo, Nghị quyết nhấn mạnh: “Cấp học bổng hoặc có chính sách khuyến khích, hỗ trợ học sinh, sinh viên, giảng viên đi học tập, nghiên cứu, thỉnh giảng ở các nước phát triển, các nước có quan hệ truyền thống, có thế mạnh trong các lĩnh vực, ngành trọng điểm, tận dụng các chương trình hợp tác song phương”.

Liên quan đến vấn đề này, lãnh đạo một số cơ sở giáo dục đại học đã chia sẻ về tầm quan trọng của việc đưa sinh viên, giảng viên ra nước ngoài học tập, nghiên cứu, cũng như tiêu chí lựa chọn người học nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách.

Cơ hội mở rộng kiến thức và trải nghiệm quốc tế cho sinh viên, giảng viên

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thiên Phúc - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: “Việc cấp học bổng hoặc có chính sách khuyến khích, hỗ trợ học sinh, sinh viên và giảng viên đi học tập, nghiên cứu, thỉnh giảng tại các nước phát triển là rất cần thiết. Những trải nghiệm quốc tế giúp người học mở rộng kiến thức, tích lũy kinh nghiệm, có cơ hội cọ xát thực tiễn, từ đó nâng cao năng lực và đóng góp thiết thực khi trở về.

Mặc dù, Việt Nam đang có những bước tiến nhanh trong phát triển khoa học - công nghệ, song so với nhiều quốc gia như Mỹ, các nước Tây Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc hay ngay trong khu vực như Thái Lan, Malaysia và đặc biệt là Singapore, Việt Nam vẫn còn khoảng cách đáng kể. Vì vậy, đưa người học ra nước ngoài để trải nghiệm môi trường, quan sát phương pháp làm việc và tiếp thu kiến thức chuyên môn là cơ hội quý báu giúp mở rộng quan hệ quốc tế và chuẩn bị tốt hơn cho sự hội nhập trong bối cảnh giáo dục toàn cầu.

Tuy nhiên, khi lựa chọn quốc gia, trường đại học và ngành nghề đào tạo để cử người học ra nước ngoài nên giao cho cơ sở giáo dục đại học trực tiếp quản lý. Mỗi trường quốc tế có định hướng và trình độ khác nhau, do đó trường trong nước phải chịu trách nhiệm quyết định để đảm bảo sự phù hợp và hiệu quả".

thay-phuc.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thiên Phúc - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh website nhà trường.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Thiên Phúc, yếu tố đầu tiên để tuyển chọn ứng viên đi học tập ở nước ngoài là người học phải có kỹ năng ngoại ngữ vững vàng, thể hiện quyết tâm ngay từ đầu, nhằm tiếp cận hiệu quả chương trình đào tạo và nghiên cứu quốc tế.

Bên cạnh đó, các cơ sở giáo dục đại học cần đồng hành, hỗ trợ sinh viên và giảng viên nâng cao năng lực ngoại ngữ nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Chẳng hạn, tại Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Ngoại ngữ đã tổ chức những khóa học miễn phí hoặc với mức học phí thấp cho sinh viên học tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nhật và tiếng Hàn. Đây là giải pháp thiết thực các trường cần đẩy mạnh để nâng cao năng lực ngoại ngữ cho người học.

Yếu tố thứ hai là ứng viên phải nắm chắc kiến thức chuyên môn. Khi có cơ hội va chạm thực tiễn, họ sẽ học hỏi phương pháp làm việc thực tế và nâng cao khả năng ứng dụng kiến thức. Trước hết, có thể để họ tham gia một số chương trình ngắn hạn ở nước ngoài như tham dự hội nghị khoa học quốc tế, khóa học ngắn hạn, những chuyến tham quan học tập tại trường đại học... Những trải nghiệm này giúp họ mở rộng hiểu biết, tạo nền tảng vững chắc cho quá trình học tập, nghiên cứu trong tương lai.

Cùng bàn về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mai Đăng - Giám đốc Trung tâm Đào tạo Quốc tế, Trường Đại học Thủy lợi chia sẻ: "Chủ trương này rất cần thiết, kế thừa kinh nghiệm từ việc triển khai các đề án và chương trình học bổng như Đề án 322, Đề án 911, Đề án 89, Đề án đào tạo đại học chính quy theo chương trình tiên tiến của các nước trên thế giới...

Những hỗ trợ này giúp học sinh, sinh viên, cán bộ và giảng viên phát triển năng lực chuyên môn, kỹ năng mềm, phương pháp làm việc, đồng thời hòa nhập sâu rộng với môi trường quốc tế. Họ có cơ hội học tập, nghiên cứu tại nhiều trường đại học hàng đầu thế giới, tiếp cận phương pháp giảng dạy, chương trình đào tạo tiên tiến và sử dụng hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại.

Nhờ đó, nhiều đề tài độc đáo, sáng tạo đã được triển khai, vượt qua ranh giới chuyên môn, quốc gia và văn hóa, góp phần nâng cao giá trị cá nhân, mở rộng cơ hội nghề nghiệp, gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường lao động toàn cầu và tạo ra những đóng góp thiết thực cho các lĩnh vực Việt Nam đang cần trong giai đoạn phát triển mới".

thay-dang-1.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mai Đăng - Giám đốc Trung tâm Đào tạo Quốc tế, Trường Đại học Thủy lợi. Ảnh: NVCC.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Mai Đăng, mục tiêu của Nghị quyết 71 là tập trung vào chiến lược chung về phát triển giáo dục và đào tạo, nâng tầm cơ sở giáo dục đại học, và tăng cường nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, cần phải tuyển chọn được ứng viên tiềm năng thông qua một số tiêu chí cụ thể.

Đầu tiên, ứng viên phải có kết quả học tập và nghiên cứu khoa học xuất sắc, thể hiện qua điểm trung bình chung tích lũy (GPA) ở các bậc trung học phổ thông, đại học và sau đại học. Đồng thời, có sản phẩm khoa học và công nghệ trong những lĩnh vực ưu tiên phát triển cho giai đoạn tới của quốc gia.

Tiếp đến, ứng viên phải có chứng chỉ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của các cơ sở giáo dục đào tạo và nghiên cứu quốc tế như IELTS, TOEFL, HSK, TOPIK, JLPT.

Ngoài ra, thành tích hoạt động ngoại khóa phục vụ xã hội, cộng đồng, cùng năng lực về kỹ năng mềm cũng là những tiêu chí quan trọng. Trường hợp cần thiết, có thể xem xét thêm chứng chỉ bổ trợ khác như SAT, GMAT hay GRE.

Đồng quan điểm, Tiến sĩ Lê Ngọc Sơn - Viện trưởng Viện Đào tạo Quốc tế và Sau đại học, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, việc hỗ trợ người học, giảng viên học tập ở nước ngoài cần đi kèm các tiêu chí rõ ràng, minh bạch, nhằm đảm bảo lựa chọn đúng đối tượng, đúng mục tiêu chính sách và phát huy hiệu quả sau quá trình đào tạo.

Để nhận học bổng hoặc được hưởng chính sách hỗ trợ theo tinh thần Nghị quyết 71, người học cần đáp ứng các tiêu chí tùy theo từng chương trình học bổng cụ thể và những nguyên tắc cốt lõi như sau:

Về năng lực cá nhân và chuyên môn, người học phải có thành tích học tập, nghiên cứu tốt; có tư duy đổi mới, hội nhập; trình độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của chương trình.

Cùng với đó, cần bảo đảm sự phù hợp với định hướng phát triển, việc lựa chọn ngành, chuyên môn nên thuộc nhóm ưu tiên quốc gia hoặc gắn với chiến lược phát triển của đơn vị.

Không chỉ vậy, phải có cam kết rõ ràng, sau khi hoàn thành chương trình học tập, nghiên cứu, người học phải quay về phục vụ tại đơn vị, địa phương hoặc tham gia các hoạt động chuyển giao, hợp tác.

Đặc biệt, ứng viên cần có kế hoạch học tập, nghiên cứu cụ thể và khả thi, thể hiện rõ mục tiêu, nội dung cũng như kỳ vọng đóng góp sau đào tạo.

thay-son.jpg
Tiến sĩ Lê Ngọc Sơn - Viện trưởng Viện Đào tạo Quốc tế và Sau đại học, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC

Học bổng cần đảm bảo hỗ trợ "đúng người - đúng nhu cầu - đúng mục tiêu"

Để chính sách học bổng phát huy hiệu quả, việc lựa chọn ứng viên, giám sát quá trình đào tạo và tạo môi trường làm việc hấp dẫn sau khi trở về là yếu tố then chốt.

Liên quan đến vấn đề này, Giám đốc Trung tâm Đào tạo Quốc tế, Trường Đại học Thủy lợi cho rằng cần có cách nhìn linh hoạt trong việc đóng góp cho đất nước. Thực tế, nhiều nhà khoa học, kỹ sư dù làm việc ở nước ngoài nhưng vẫn có đóng góp quan trọng cho quê hương. Điều quan trọng không nằm ở việc họ ở đâu, mà ở hiệu quả công việc và tinh thần hướng về đất nước.

Tuy nhiên, hiện nay nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế khi cấp học bổng đều có điều kiện ràng buộc kèm theo, nhằm bảo đảm người được hỗ trợ sau khi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài sẽ quay về đóng góp cho đất nước.

Một số điều kiện có thể tham khảo như người học phải cam kết hoàn trả chi phí đào tạo nếu không hoàn thành theo hợp đồng cấp học bổng.

Ngoài ra, cơ quan quản lý và cơ sở đào tạo có trách nhiệm phối hợp quản lý, hỗ trợ trong quá trình học tập, nghiên cứu cũng như đôn đốc người học thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết.

Nhà nước cần ban hành chế tài xử phạt đối với trường hợp người học không thực hiện đúng cam kết. Tuy nhiên, cần có cơ chế xem xét cho các tình huống bất khả kháng như bệnh tật, tai nạn… để người học yên tâm hơn khi tham gia chương trình hỗ trợ theo Nghị quyết 71.

Cùng với đó, cần có chính sách trọng dụng nhân tài với chế độ đãi ngộ về lương, phụ cấp, nhà ở, kinh phí triển khai dự án, đề tài. Đồng thời cải thiện môi trường làm việc theo hướng hiện đại, khuyến khích sáng tạo và tinh thần khai phóng.

sinh-vien.jpg
Sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh trong chương trình trao đổi, học tập về điện hạt nhân tại Đại học Liên bang Ural. Ảnh: NTCC

Để tuyển chọn được những ứng viên tốt, đúng nhu cầu đào tạo, đảm bảo công bằng và minh bạch, Giám đốc Trung tâm Đào tạo Quốc tế, Trường Đại học Thủy lợi đề xuất thêm:

Thứ nhất, phải xây dựng tiêu chí tuyển chọn rõ ràng, công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Quy trình xét duyệt cũng cần được công khai, với hội đồng tuyển chọn có đủ năng lực và làm việc công tâm.

Thứ hai, cần kiểm tra định kỳ các hoạt động, giám sát chặt chẽ việc phân bổ và sử dụng quỹ học bổng để bảo đảm nguồn lực được dùng đúng mục đích, hiệu quả. Đồng thời, duy trì kênh tiếp nhận phản ánh, khiếu nại của người học để xử lý kịp thời, tránh làm gián đoạn quá trình đào tạo.

Thứ ba, phải thông tin đầy đủ về chính sách học bổng và hướng dẫn chi tiết để ứng viên hoàn thiện thủ tục đúng tiến độ.

Trong khi đó, Viện trưởng Viện Đào tạo Quốc tế và Sau đại học, Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đánh giá, Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo. Việc cấp học bổng, có chính sách khuyến khích, hỗ trợ học sinh, sinh viên, giảng viên đi học tập, nghiên cứu, thỉnh giảng ở nước ngoài là một trong những giải pháp hiệu quả nhằm giúp đội ngũ trí thức Việt Nam tiếp cận tri thức toàn cầu, cập nhật công nghệ hiện đại, kết nối học thuật quốc tế và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển đất nước.

Tại Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, nhà trường đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ học bổng cho giảng viên và sinh viên từ năm 2021 và sắp tới sẽ tiếp tục nghiên cứu để có thêm nhiều chính sách theo tinh thần Nghị quyết 71.

Đối với giảng viên, nhà trường hỗ trợ đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài thông qua học bổng chính phủ, học bổng quốc tế và chương trình hợp tác với trường đối tác. Ngoài ra, giảng viên còn được chi trả 40% lương cơ bản, đóng bảo hiểm đầy đủ trong thời gian học tập; nếu có 2 bài báo khoa học thuộc danh mục WoS/Scopus đứng tên Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh sẽ được hưởng 100% lương cơ bản. Nhà trường cũng tích cực đẩy mạnh các chương trình trao đổi giảng viên, hợp tác nghiên cứu quốc tế.

Đối với người học, nhà trường tạo điều kiện để sinh viên tiếp cận nền giáo dục tiên tiến thông qua chương trình trao đổi sinh viên, chuyển tiếp du học và thực tập sinh quốc tế. Hằng năm, hàng trăm sinh viên được nhận học bổng để học tập, nghiên cứu, thực tập tại các quốc gia như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Bỉ, Đức, Mỹ... Bên cạnh đó, nhà trường chủ động đàm phán với các đối tác để mang lại học bổng ưu đãi, chính sách miễn giảm học phí, hỗ trợ thủ tục và phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai, theo dõi chương trình.

Từ những hỗ trợ trên, giảng viên, sinh viên có cơ hội nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện ngoại ngữ, kỹ năng mềm và tiếp cận môi trường học thuật quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác.

Với nhà trường, việc này góp phần thúc đẩy công bố quốc tế, phát triển nghiên cứu khoa học, cải tiến phương pháp đào tạo và gia tăng uy tín trong nước cũng như trên trường quốc tế.

Vì vậy, để chính sách học bổng đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài mang lại hiệu quả bền vững, việc đảm bảo người được cấp học bổng quay trở về và cam kết phục vụ đơn vị, đất nước bằng các hình thức phù hợp là yếu tố then chốt. Cơ chế này cần được thiết kế xuyên suốt toàn bộ quy trình: trước - trong - sau chương trình, nhằm đảm bảo tính đồng bộ và khả thi.

Trước chương trình, cần lựa chọn đúng đối tượng, có định hướng nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu phát triển của đơn vị, ngành hoặc địa phương. Đồng thời, thiết lập cam kết ràng buộc rõ ràng về thời gian phục vụ sau đào tạo, ràng buộc bồi hoàn kinh phí nếu vi phạm.

Trong quá trình học tập, nghiên cứu, nhà trường cần có cơ chế theo dõi, giám sát, điều chỉnh linh hoạt nếu phát sinh thay đổi. Khuyến khích người học chủ động kết nối, chuyển giao, chia sẻ kết quả nghiên cứu trong quá trình học, tạo ra giá trị trước khi quay về.

Sau chương trình, cần có chính sách tạo động lực như môi trường làm việc tốt, thu nhập cạnh tranh, cơ hội thăng tiến minh bạch, công nhận đóng góp và bố trí vị trí việc làm phù hợp, nhằm phát huy năng lực và giữ chân nhân sự lâu dài.

"Chính sách học bổng chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi đảm bảo 3 yếu tố là: đúng người - đúng nhu cầu - đúng mục tiêu phát triển. Điều này không chỉ giúp tối ưu nguồn lực đầu tư, mà còn tạo dựng niềm tin, sự đồng thuận từ xã hội, cộng đồng học thuật và chính người thụ hưởng học bổng", vị viện trưởng bày tỏ.

Khánh Hòa