Theo đánh giá của lãnh đạo một số cơ sở giáo dục đại học, hiện số lượng người theo học các ngành sinh học, công nghệ sinh học và y sinh vẫn còn thấp so với nhu cầu nguồn nhân lực của xã hội.
Do đó, việc đạt được mục tiêu cụ thể đến năm 2030, số người tốt nghiệp các chương trình đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đạt 5 nghìn người/năm, trong đó ít nhất 20% được cấp bằng kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ theo Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 và định hướng tới năm 2045 còn một số thách thức.
Từ thực tế trên, lãnh đạo một số cơ sở giáo dục đã đưa ra những giải pháp và đề xuất cụ thể về vấn đề này.
Số lượng người học chuyên sâu có tăng nhưng không đáng kể
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Quách Ngô Diễm Phương, Trưởng Khoa Sinh học - Công nghệ sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cho biết, hiện nay, số lượng người học các chương trình đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học, y sinh tuy có tăng qua từng năm nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng phát triển cũng như nhu cầu thực tiễn của đất nước, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng xanh, tuần hoàn và bền vững.
Riêng đối với lĩnh vực công nghệ sinh học, Nghị quyết số 36-NQ/TW năm 2023 của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh rất rõ vai trò của công nghệ sinh học như một ngành đột phá, có ý nghĩa chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực này vẫn còn thiếu hụt nghiêm trọng, đặc biệt là về số lượng.
Theo cô Phương, việc số lượng người học các lĩnh vực chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học, y sinh còn thấp đến từ một số yếu tố sau:
Thứ nhất, nhận thức xã hội còn hạn chế. Nhiều học sinh, phụ huynh vẫn cho rằng các lĩnh vực này "khó tìm việc", trong khi chưa nhìn thấy rõ cơ hội nghề nghiệp phong phú trong bối cảnh hội nhập và phát triển công nghệ cao.
Thứ hai, thiếu liên kết giữa đào tạo và ứng dụng. Một số chương trình đào tạo hiện chưa đủ gần gũi với thực tiễn sản xuất – nghiên cứu – đổi mới sáng tạo. Sinh viên còn thiếu cơ hội thực hành, tiếp cận doanh nghiệp công nghệ sinh học, từ đó giảm động lực học tập và theo đuổi sự nghiệp lâu dài trong ngành.
Thứ ba, chính sách hỗ trợ và thu hút nhân tài chưa mạnh mẽ. So với các ngành "hot" như công nghệ thông tin hay kinh tế – tài chính, các chính sách học bổng, hỗ trợ học phí, hay định hướng nghề nghiệp cho sinh viên ngành sinh học, công nghệ sinh học, y sinh vẫn chưa thực sự hấp dẫn.
Thứ tư, cơ hội nghề nghiệp sau tốt nghiệp còn hạn chế. Điều này xuất phát từ việc thiếu kết nối giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp, dẫn tới vị trí việc làm của sinh viên chưa phù hợp với chuyên môn. Hiện nay, vẫn còn một số lượng đáng kể sinh viên ra trường làm việc trái ngành.

Cùng bàn về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Chu Kỳ Sơn - Hiệu trưởng Trường Hoá và Khoa học sự sống, Đại học Bách Khoa Hà Nội cho rằng, hiện nay, nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực STEM, đặc biệt là sinh học, công nghệ sinh học và y sinh ngày càng trở nên rõ ràng và cấp bách. Đây là nền tảng quan trọng để Việt Nam phát triển đột phá trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Theo các chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước, việc đào tạo đội ngũ chuyên gia, kỹ sư và nhà khoa học trong các ngành STEM không chỉ là yêu cầu của thời đại, mà còn là điều kiện tiên quyết để thu hút đầu tư, phát triển công nghệ cao và xây dựng nền kinh tế tri thức. Đặc biệt, nguồn nhân lực giỏi còn cần thiết để đảm nhiệm công việc nghiên cứu, phát triển các công nghệ mang tính chiến lược, phục vụ lợi ích lâu dài của quốc gia.
Việt Nam hiện có nhiều cơ sở giáo dục đại học đang triển khai các chương trình đào tạo liên quan tới lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học và kỹ thuật y sinh với tổng chỉ tiêu tuyển sinh những năm gần đây khoảng trên 40000 chỉ tiêu đào tạo ở trình độ đại học. Tuy nhiên, chúng ta chưa thu hút được sinh viên giỏi theo học bởi số lượng doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động đúng lĩnh vực về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh chưa nhiều.
Cùng với đó, mức lương, thu nhập chưa tương xứng với tiềm năng của người lao động, chưa tạo được động lực để họ gắn bó với nghề. Ngoài ra, sinh viên giỏi lựa chọn các ngành này lại thường học tập tại các đại học, viện nghiên cứu ở những quốc gia phát triển với điều kiện học tập, nghiên cứu tốt hơn, cùng cơ hội việc làm với mức đãi ngộ cạnh tranh hơn.

Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thanh Tùng - Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, mặc dù sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đang mở ra vô vàn ứng dụng đột phá trong y dược, nông nghiệp, công nghiệp và môi trường, trở thành ngành trọng yếu của tương lai, nhưng thực tế cho thấy, số lượng sinh viên theo học trong lĩnh vực này vẫn còn rất hạn chế, đặc biệt chưa thu hút được nhiều thí sinh giỏi theo học. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân.
Trước hết, thí sinh giỏi thường có xu hướng lựa chọn các ngành học "hot" hơn như y dược, công nghệ thông tin hay kinh tế. Không ít thí sinh và phụ huynh chưa hiểu rõ về cơ hội nghề nghiệp, học tập nâng cao sau khi tốt nghiệp các ngành sinh học, công nghệ sinh học và y sinh, dẫn đến việc lựa chọn ngành học dựa trên cảm tính hoặc xu hướng.
Cùng với đó, một số cơ sở đào tạo cũng chưa tập trung và có chiến lược phát triển cho các ngành này bởi nguồn lực tập trung cho cơ sở vật chất để đào tạo là khá lớn, đặc biệt trong bối cảnh tự chủ đại học hiện nay.
Cần có sự vào cuộc từ nhà nước, các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và toàn xã hội
Theo quan điểm của thầy Võ Thanh Tùng, để đạt mục tiêu đến năm 2030 số lượng người tốt nghiệp các chương trình đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đạt 5 nghìn người/năm, trong đó ít nhất 20% được cấp bằng kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ, cần hội tụ nhiều điều kiện và có những giải pháp mang tính đồng bộ.
Trước hết, cần có chính sách, cơ chế phù hợp để ưu tiên phát triển và ứng dụng nhằm tạo môi trường thuận lợi để thu hút các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nghiên cứu, ứng dụng, sản xuất sản phẩm sinh học, công nghệ sinh học, y sinh. Đặc biệt, cần nghiên cứu lại cơ chế tự chủ đại học dành cho các trường đầu tư phát triển khoa học cơ bản, bởi các trường này có rất nhiều yếu tố, điều kiện cần có thêm sự hỗ trợ từ những chính sách của Chính phủ.
Cùng với đó, phải phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ cao liên quan đến ngành sinh học, công nghệ sinh học, kỹ thuật y sinh.
Bên cạnh đó, đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị nghiên cứu đồng bộ hiện đại đi kèm với những chính sách học bổng, hỗ trợ tài chính phù hợp cho người học, chẳng hạn như cơ chế hỗ trợ đặc thù của các ngành của sư phạm.
Mặt khác, phải gắn kết chương trình đào tạo với nhu cầu thị trường lao động, với doanh nghiệp để tạo ra cơ hội thực tập, nghiên cứu và việc làm cho sinh viên.
Đặc biệt, cần có chính sách "đặt hàng" tại các cơ sở đại học uy tín nhằm đảm bảo việc làm sau tốt nghiệp cho sinh viên.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Thanh Tùng - Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. Ảnh: Website nhà trường.
Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Quách Ngô Diễm Phương, mục tiêu đạt số lượng người tốt nghiệp các chương trình đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đạt 5 nghìn người/năm, trong đó ít nhất 20% được cấp bằng kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ là một mục tiêu đầy tham vọng nhưng hoàn toàn khả thi nếu có sự vào cuộc đồng bộ từ phía nhà nước, các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và toàn xã hội.
Trưởng Khoa Sinh học - Công nghệ sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh nhấn mạnh 5 điều kiện để có thể thực hiện mục tiêu này của đề án.
Thứ nhất, tăng cường đầu tư của nhà nước. Nhà nước cần có chính sách ưu tiên đầu tư ngân sách cho các cơ sở đào tạo ngành sinh học, công nghệ sinh học, y sinh đặc biệt là về cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, trang thiết bị hiện đại phục vụ đào tạo và nghiên cứu.
Thứ hai, đổi mới chương trình đào tạo theo hướng chuẩn quốc tế và thực tiễn hóa. Bên cạnh việc xây dựng chương trình học chuyên sâu, cơ sở đào tạo cần chú trọng đến việc điều chỉnh khung chương trình đào tạo theo hướng linh hoạt, hiện đại, bám sát thực tiễn và nhu cầu của thị trường lao động. Các học phần được rà soát, cập nhật định kỳ với sự tham gia góp ý từ chuyên gia, doanh nghiệp và cựu sinh viên nhằm đảm bảo nội dung đào tạo không chỉ mang tính học thuật, mà còn có tính ứng dụng cao.
Cùng với đó, tăng cường kết nối với xã hội, đặc biệt là với các doanh nghiệp công nghệ, viện nghiên cứu và tổ chức quốc tế để đồng hành cùng quá trình đào tạo. Điều này thể hiện qua các hoạt động phối hợp tổ chức seminar, workshop chuyên đề, thực tập, kiến tập tại doanh nghiệp cũng như mời chuyên gia tham gia giảng dạy hoặc phản biện nội dung môn học.
Thứ ba, cần có chính sách học bổng và tài chính hiệu quả. Theo đó, có thể xây dựng cơ chế học bổng toàn phần và bán phần cho sinh viên giỏi, đặc biệt là những sinh viên có nguyện vọng học tập ở bậc cao học và nghiên cứu sinh. Các chương trình vay ưu đãi, hỗ trợ tài chính cũng nên được đẩy mạnh nhằm tạo điều kiện cho sinh viên yên tâm học tập dài hạn. Đặc biệt, cần có hệ thống học bổng quốc gia và học bổng liên kết với doanh nghiệp để hỗ trợ sinh viên giỏi, nhất là ở bậc sau đại học. Đây là đòn bẩy để thu hút và giữ chân nhân lực chất lượng cao trong ngành.
Thứ tư, cần kết nối chặt chẽ với doanh nghiệp và viện nghiên cứu. Bởi việc đào tạo phải đi đôi với tạo ra việc làm. Do đó, cần xây dựng các chương trình đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp trong lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học, y sinh. Việc sinh viên có thể thực tập, làm đề tài tại doanh nghiệp, viện nghiên cứu hoặc bệnh viện là yếu tố then chốt và bắt buộc trong chương trình đào tạo nhằm bám sát với nhu cầu thực tiễn.
Thứ năm, phát triển đội ngũ giảng viên và chuyên gia đầu ngành. Việc đào tạo số lượng lớn nhưng vẫn đảm bảo chất lượng không thể thiếu đội ngũ giảng viên trình độ cao, tâm huyết, có kinh nghiệm thực tế và tiếp cận được trình độ khoa học công nghệ hiện đại. Ngoài ra, cũng cần thiết lập mạng lưới các trung tâm đào tạo liên vùng, nhằm lan tỏa mô hình đào tạo chất lượng cao đến khắp các địa phương, đúng như định hướng của Quyết định số 1002/QĐ-TTg về phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghệ cao đến năm 2035, tầm nhìn 2045.

Sinh viên Khoa Sinh học - Công nghệ sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tham quan Viện Tế bào gốc. Ảnh: NVCC.
Trong khi đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Chu Kỳ Sơn cho rằng, giải pháp để đạt được mục tiêu này của đề án là phát triển hệ thống đào tạo đa dạng và chất lượng cao. Trong đó, tăng quy mô tuyển sinh có kiểm soát chất lượng ở bậc cử nhân, kỹ sư, đồng thời mở rộng chương trình thạc sĩ, tiến sĩ nghiên cứu và phát triển ứng dụng thay vì chỉ đào tạo nghiên cứu hàn lâm.
Cùng với đó, cần chuẩn hóa và hiện đại hóa chương trình đào tạo theo hướng tích hợp các lĩnh vực mũi nhọn như: trí tuệ nhân tạo, tin sinh học, công nghệ gen, công nghệ tế bào, sản xuất dược phẩm, vaccine sinh học...
Đồng thời, tăng cường đầu tư cho các đại học trọng điểm. Từ đó, xây dựng trung tâm đào tạo chuyên sâu, phòng thí nghiệm hiện đại và đồng bộ đạt chuẩn quốc tế. Hình thành mạng lưới đào tạo liên ngành giữa các trường công nghệ/kỹ thuật, y – dược, nông nghiệp và khoa học tự nhiên.
Bên cạnh đó, liên kết chặt chẽ với thị trường lao động và doanh nghiệp. Nhà nước cần có chính sách, hỗ trợ và yêu cầu doanh nghiệp tham gia vào quá trình đào tạo, từ tham gia thiết kế chương trình, thực tập đến tài trợ học bổng nghiên cứu để có nguồn nhân lực lao động chất lượng cao và đáp ứng yêu cầu phát triển của doanh nghiệp.
Mặt khác, cần thu hút học sinh giỏi theo học bằng cách đẩy mạnh truyền thông ngành học gắn với trải nghiệm thực tế về khởi nghiệp, chuyển đổi số trong các lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đối với học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tổ chức sân chơi khoa học, trại hè, Olympic chuyên ngành cho học sinh phổ thông chuyên và sinh viên khối ngành liên quan. Đồng thời, cần có học bổng đặc thù cho người học tài năng ở bậc kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ và hỗ trợ chi phí nghiên cứu, công bố quốc tế.
Ngoài ra, phát triển đội ngũ giảng viên, nhà nghiên cứu mạnh cả về số lượng và chất lượng. Trong đó, cần có chính sách đãi ngộ vượt trội để thu hút tiến sĩ, chuyên gia quốc tế, Việt kiều, người Việt Nam làm việc ở nước ngoài về làm việc dài hạn. Đầu tư phát triển giảng viên trẻ, hỗ trợ học tiến sĩ, sau tiến sĩ trong và ngoài nước. Đặc biệt, hình thành nhóm nghiên cứu mạnh, phòng thí nghiệm trọng điểm để tạo môi trường nghiên cứu và phát triển chuyên nghiệp.