Ngày 24/5, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long đã ký Quyết định số 1002/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 và định hướng tới năm 2045.

Mục tiêu đến năm 2030 của Đề án này là tăng nhanh quy mô đào tạo trình độ cao khối ngành STEM. Cụ thể, đặt ra mục tiêu số người tốt nghiệp các chương trình đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đạt 5 nghìn người/năm trong đó ít nhất 20% được cấp bằng kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ.

Nhận thức nghề nghiệp, chính sách hỗ trợ và sự đầu tư hạn chế là rào cản

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trần Vũ - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ, các ngành sinh học, công nghệ sinh học, kỹ thuật y sinh được xem là phức tạp, đòi hỏi kiến thức và nhiều công nghệ cao đi kèm. Sinh viên tốt nghiệp các ngành này thường làm trong các doanh nghiệp về lĩnh vực y tế, các bệnh viện, dược phẩm, thực phẩm, nông nghiệp, môi trường hoặc làm công tác giảng dạy.

Trên thực tế, số doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực này ở Việt Nam không quá nhiều, nhu cầu lao động không lớn. Do đó, cơ hội việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp không cao, thiếu tính hấp dẫn. Đây là lý do vì sao hiện nay các cơ sở giáo dục đại học thường tuyển không đủ chỉ tiêu tuyển sinh với các ngành này.

thay-pham-tran-vu-bka-hcm-3850-5439.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trần Vũ - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh NVCC

Theo thầy Vũ, về năng lực đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam nói chung, để đến năm 2030, đào tạo được 5 nghìn người tốt nghiệp/năm các chương trình đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh không phải là thách thức quá lớn.

Tuy nhiên, để tuyển được 5 nghìn người học có chất lượng thì cần phải tăng tính hấp dẫn của chương trình đào tạo, đặc biệt là nâng cao cơ hội nghề nghiệp cho người học sau khi hoàn thành đào tạo. Để làm được điều này, cần có chính sách phát triển nhiều hơn nữa đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học, kỹ thuật y sinh. Nếu phát triển năng lực đào tạo, nhưng không tạo được cơ hội việc làm thì khó có thể thu hút được người học.

Ngoài ra, cũng cần lưu ý, mặc dù các lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học, kỹ thuật y sinh thuộc nhóm công nghệ cao, nhưng các vị trí việc làm ở các doanh nghiệp ở Việt Nam thường không đòi hỏi người lao động có kỹ năng cao, kiến thức quá chuyên sâu. Đa số các công việc thường là vận hành máy móc, giám sát chất lượng, quy trình,… cùng các công việc liên quan đến nghiên cứu, phát triển thường không nhiều, dẫn tới sự đòi hỏi người lao động có trình độ cao, chuyên sâu có thể cũng không quá lớn. Vì vậy, cần khuyến khích và tạo điều kiện hơn nữa để các doanh nghiệp tăng cường các hoạt động nghiên cứu, phát triển ở lĩnh vực này.

Thầy Vũ cho biết, hiện nhà trường đang đào tạo ngành công nghệ sinh học và chuyên ngành kỹ thuật y sinh. Nhằm tăng số lượng người học cũng như đẩy mạnh chất lượng đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh trong thời gian tới, Ở bậc đại học, bên cạnh đào tạo sử dụng tiếng Việt truyền thống, nhà trường có chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh. Với ngành công nghệ sinh học, nhà trường tổ chức đào tạo chuyên sâu, đặc thù. Từ năm 2025, trường có mở thêm chương trình công nghệ sinh học số, nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động hiện nay. Cùng với đó, nhà trường cũng xem công nghệ sinh học là ngành trọng điểm, được ưu tiên đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu trong những năm tới đây.

Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh, bên cạnh việc giải quyết vấn đề cung cầu ở thị trường lao động, đối với các trường đại học, để nâng cao chất lượng đào tạo cũng như thu hút được người học ở các ngành này, cần có một số chính sách đảm bảo tính lâu dài, bền vững.

Trước hết, do đây là lĩnh vực công nghệ cao, hầu hết trang thiết bị đều phải nhập từ các nước phát triển, kinh phí đầu tư thường rất lớn. Vì vậy, nhà nước cần tăng cường đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học cho các cơ sở giáo dục.

Cùng với đó, cần có chương trình học bổng, tín dụng sinh viên, để hỗ trợ người học, thu hút người học có năng lực phù hợp.

Ngoài ra, cần xây dựng các chương trình nghiên cứu, phát triển các sản phẩm, công nghệ trọng điểm, hỗ trợ các hoạt động chuyển giao công nghệ, thương mại hoá sản phẩm nghiên cứu và đồng thời khuyến khích phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp.

“Với quy mô đào tạo hiện nay của các trường ở các ngành này việc quan trọng là làm sao tăng sức hấp dẫn của các chương trình đào tạo bằng việc hỗ trợ học tập và nâng cao cơ hội nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp để thu hút người học có năng lực tốt.

Để thu hút người học thì vấn đề quan trọng nhất là nâng cao cơ hội nghề nghiệp cho người học sau khi hoàn thành chương trình đào tạo. Việc này cũng đúng với bậc sau đại học. Ở trình độ sau đại học, công việc chủ yếu của người học sau khi tốt nghiệp là các tổ chức nghiên cứu, phát triển như các trường, viện, trung tâm nghiên cứu, các cơ sở R&D ở các doanh nghiệp,... Do vậy, nhà nước cần có chính sách khuyến khích và đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, phát triển ở lĩnh vực sinh học, công nghệ sinh học, kỹ thuật y sinh và các lĩnh vực liên quan khác”, thầy Vũ bày tỏ.

Sinh viên (trái) Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đang thực hành tại Phòng Thí nghiệm Công nghệ Vi sinh dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Ảnh Website trường

Sinh viên (trái) Trường Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đang thực hành tại Phòng Thí nghiệm Công nghệ Vi sinh dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Ảnh Website trường

Cùng bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Quách Thanh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, hiện nay, số lượng sinh viên theo học các ngành chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh tại Việt Nam vẫn chưa đạt mức kỳ vọng. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tổng số sinh viên đại học trên cả nước là hơn 2 triệu, nhưng số lượng sinh viên theo học các ngành khoa học sự sống và công nghệ sinh học vẫn còn hạn chế. Lý do những lĩnh vực này chưa thu hút được nhiều thí sinh giỏi theo học xuất phát từ nhiều nguyên nhân.

Thứ nhất, về nhận thức và định hướng nghề nghiệp, nhiều học sinh và phụ huynh chưa thực sự hiểu rõ về tiềm năng của các ngành này. Các lĩnh vực như công nghệ thông tin, kinh tế, tài chính thường được ưu tiên hơn do có cơ hội việc làm rõ ràng và mức lương hấp dẫn.

Thứ hai, cơ hội việc làm chưa rõ ràng. Dù công nghệ sinh học có tiềm năng phát triển mạnh, nhưng thị trường lao động chưa thực sự sôi động. Các doanh nghiệp và viện nghiên cứu trong lĩnh vực này chưa có nhiều vị trí tuyển dụng hấp dẫn, khiến sinh viên e ngại về cơ hội nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp.

Thứ ba, đầu tư nghiên cứu và phát triển còn hạn chế. So với các nước phát triển, Việt Nam chưa có nhiều trung tâm nghiên cứu lớn về công nghệ sinh học, công nghệ y sinh, điện tử y sinh. Điều này làm giảm sức hút đối với những học sinh giỏi có đam mê nghiên cứu khoa học.

Thứ tư, chính sách hỗ trợ chưa đủ mạnh. Các chương trình học bổng, hỗ trợ nghiên cứu cho sinh viên ngành công nghệ sinh học, công nghệ y sinh chưa thực sự phổ biến. Điều này khiến nhiều học sinh giỏi chọn du học thay vì theo học tại Việt Nam.

thay-quach-thanh-hai.jpg
Tiến sĩ Quách Thanh Hải - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Website trường.

Cũng theo thầy Hải, Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển công nghệ sinh học, nhưng cần có chiến lược dài hạn để thu hút nhân tài và thúc đẩy sự phát triển của ngành. Để thu hút nhân tài, chúng ta cần tăng cường truyền thông về vai trò và tiềm năng của ngành công nghệ sinh học, điện tử y sinh, công nghệ sinh học trong tương lai. Cùng với đó, đẩy mạnh đầu tư vào nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học, điện tử trong y tế, nông nghiệp, môi trường. Song song đó, trường học cần hợp tác với doanh nghiệp để tạo thêm cơ hội việc làm và thực tập cho sinh viên. Mặt khác, phải cải thiện chính sách học bổng và hỗ trợ tài chính cho sinh viên theo học các ngành này.

Thầy Hải cho biết, nhà trường hiện đang đào tạo ngành Kỹ thuật y sinh theo hướng ứng dụng công nghệ kỹ thuật Điện tử trong y sinh dựa trên nền tảng rất mạnh và truyền thống của khoa Điện-Điện Tử của trường. Trong những năm vừa qua, nhà trường đã đẩy mạnh công tác truyền thông, hướng nghiệp cho ngành học này. Bên cạnh đó, việc đầu tư mạnh cho cơ sở vật chất, nhân lực cho ngành và hợp tác rất chặt chẽ với các cơ sở y tế cũng được nhà trường chú trọng, giúp sinh viên có cơ sở để thực tập và đội ngũ giảng viên cùng tham gia nghiên cứu thực tế.

Cần có sự đầu tư chiến lược, lâu dài và đảm bảo tính bền vững

Để số lượng người tốt nghiệp các chương trình đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đạt 5 nghìn người/năm, trong đó ít nhất 20% được cấp bằng kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ, theo quan điểm của thầy Quách Thanh Hải, cần có những điều kiện về quy hoạch chiến lược, cam kết đầu tư và phát triển nguồn nhân lực lâu dài.

Về đào tạo, cần mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng chương trình sau đại học. Cùng với đó, về hệ sinh thái nghiên cứu, cần đầu tư phòng lab, trung tâm nghiên cứu, liên kết viện – trường.

Về thu hút người học và đảm bảo đầu ra, cần có thêm học bổng, đãi ngộ, truyền thông, hỗ trợ khởi nghiệp cùng cam kết tuyển dụng, nâng cao thu nhập, thị trường hấp dẫn, nhất là các nhà đầu tư trong và ngoài nước về sản xuất thiết bị y-sinh học ứng dụng cho trong nước và xuất khẩu.

Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thế Chính - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên, số người học đối với các ngành khoa học cơ bản nói chung và các ngành sinh học công nghệ sinh học và y sinh nói riêng những năm trở lại có xu hướng giảm. Điều này xuất phát từ nhu cầu của xã hội đối với nguồn nhân lực chuyên sâu về các lĩnh vực này chưa thật sự quá cao. Trong khi đó, đất nước đang trong giai đoạn phát triển và các ngành học liên quan đến công việc cụ thể đáp ứng các nhu cầu ngắn hạn của xã hội thường được lựa chọn nhiều hơn.

Theo thầy Chính, để số lượng người tốt nghiệp các chương trình đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh đạt 5 nghìn người/năm, trong đó ít nhất 20% được cấp bằng kỹ sư, thạc sĩ hoặc tiến sĩ, nhà nước cần ưu tiên nguồn kinh phí cho các nghiên cứu chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học, y sinh, đặt hàng các sản phẩm nghiên cứu cụ thể và có các chính sách ưu tiên phát triển khoa học công nghệ trong các ngành này. Từ đó, các công ty phục vụ sự phát triển của công nghệ sinh học như hóa chất, thiết bị, phân tích dữ liệu… sẽ phát triển theo và tạo ra nhu cầu việc làm trong xã hội, đồng thời, số lượng người học các ngành này cũng sẽ tăng lên.

thay-pham-the-chinh.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Thế Chính - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên. Ảnh website trường

Chia sẻ kế hoạch của đơn vị nhằm tăng số lượng người học cũng như đẩy mạnh chất lượng đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh trong thời gian tới, thầy Chính cho biết, các lĩnh vực này phù hợp với xu hướng phát triển của sinh học thế giới nói chung và là nền tảng quan trọng trong sự phát triển của đất nước nói riêng trong lĩnh vực y học, nông nghiệp, và dược phẩm.

Từ thực tế đó, bộ môn Công nghệ sinh học đã được nhà trường cập nhật lại chương trình đào tạo tập trung vào các lĩnh vực then chốt của công nghệ sinh học như kỹ thuật xét nghiệm, công nghệ gen thực vật, công nghệ sinh dược và công nghệ vaccine với mục tiêu phát triển ổn định bền vững và tạo được thương hiệu của trường trong các lĩnh vực đào tạo này.

Cũng theo thầy Chính, để phát triển các chương trình đào tạo chuyên sâu về sinh học, công nghệ sinh học, y sinh, cần có cơ chế khuyến khích để các trường gia tăng triển khai cũng như nâng cao chất lượng chương trình đào tạo tài năng các ngành này. Trong đó, cần có nhiều sự khác biệt của chương trình đào tạo tài năng so với chương trình đào tạo đại trà.

“Chương trình đào tạo tài năng là chương trình rất tốt trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Các yêu cầu trong quá trình đào tạo, chính sách học bổng hỗ trợ đối với hệ tài năng cũng phải cao hơn. Để đào tạo được hệ tài năng thành công thì sinh viên đầu vào cũng phải có năng lực cao hơn nhiều so với sinh viên hệ đại trà như điểm đầu vào cao và chọn học sinh đã đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia.

Tuy nhiên, học sinh có năng lực tốt thường sẽ có nhiều lựa chọn hơn trong việc tìm trường đại học. Vì vậy, để thành công được trong việc đào tạo hệ tài năng thì các trường phải có chính sách thu hút thật sự đáng quan tâm như miễn học phí, học bổng hàng tháng và đầu ra rộng mở như cơ hội du học hoặc cơ hội việc làm tại các công ty với mức lương cao, thầy Chính cho hay”.

Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên nhấn mạnh, để thu hút học sinh, sinh viên tham gia học trong các lĩnh vực về sinh học, công nghệ sinh học và y sinh, đặc biệt là bậc sau đại học, các trường học cần gây dựng danh tiếng bằng chất lượng thật sự của đào tạo và nghiên cứu như việc hỗ trợ kinh phí để nghiên cứu và phát triển một số lĩnh vực để tạo ra được những kết quả nổi bật và tạo được sự phát triển bền vững và dài hạn trong một thời gian dài thay vì chạy theo xu hướng ngắn hạn.

Ngoài ra, cần định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học phổ thông ngay từ những năm đầu bậc trung học phổ thông, khuyến khích học sinh tham gia học tập khối ngành STEM, tránh việc học bất cân đối chọn môn học.

Mạnh Dũng