Đại học quốc gia cần có nhà lãnh đạo chuyên nghiệp, gắn bó lâu dài

30/06/2021 06:45
Thanh Sơn
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Dư luận cho rằng Đại học Quốc gia cần nhà lãnh đạo chuyên nghiệp, chứ không phải dành cho những ai xem đây là "chiếu nghỉ" để chuẩn bị thuyên chuyển, thăng tiến.

Vào đầu thập niên 1990, khi Chính phủ chủ trương xây dựng một số trường đại học mạnh cho nước ta, Thủ tướng Võ Văn Kiệt yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo thiết kế các đại học này và Bộ đã đề nghị xây dựng hai đại học quốc gia Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, ba đại học vùng theo mô hình đại học đa lĩnh vực. Tuy nhiên việc thực hiện đã diễn ra không đúng như thiết kế.

Chia sẻ với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh chỉ ra rằng, việc sáp nhập một số trường đại học mang tính đơn ngành thành Đại học Quốc gia là một chủ trương đúng của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các trường thành viên cộng lại để có một đại học (university) theo đúng nghĩa và là nơi Nhà nước có thể đầu tư mạnh mẽ để phát triển nâng tầm giáo dục đại học nước nhà.

Sau gần 3 thập kỷ cho thấy, 2 Đại học Quốc gia có khá nhiều thành tích trong đào tạo và nghiên cứu cung cấp cho đất nước nhiều nhà nghiên cứu và giảng viên ở nhiều trường đại học. Tuy nhiên, kết quả đạt được có thể chưa đáp ứng được kỳ vọng to lớn như mục tiêu ban đầu.

“Theo tôi, nguyên nhân có thể do từ quá trình sáp nhập, mô hình quản lý chưa hoàn thiện, đặc biệt văn hoá tổ chức của các trường thành viên trước và sau sáp nhập.

Trước hết chúng ta đã sáp nhập một cách khiên cưỡng cơ học khiến sau một thời gian phải cho một số trường "ly dị". Một vài trường sau khi tách ra khỏi Đại học Quốc gia thì phát triển rất mạnh mẽ như trường Đại học sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh là một ví dụ. Có thể xem đó là cuộc hôn nhân sắp xếp (mariage aranged) dùng quyền lực hành chính vội vã nên không bền vững lại cộng với việc thiếu ý chí, cách làm bài bản cũng như thiếu nguồn lực để hiện thực hoá mục tiêu ban đầu", Tiến sĩ Vinh phân tích.

Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh (ảnh: NVCC)

Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh (ảnh: NVCC)

Trong điều kiện của Trung Quốc tương tự như Việt Nam thì Trung Quốc dường như có những thành công trong việc sắp xếp lại hệ thống giáo dục đại học của họ. Ví dụ như Đại học Chiết Giang quy mô sinh viên đại học lên đến trên 46.000 người với 98 ngành đào tạo, có đến 193 chương trình sau đại học và 106 chương trình đào tạo tiến sĩ sau khi sáp nhập các trường Đại học Chiết Giang, Đại học Hàng Châu, Đại học Nông nghiệp Chiết Giang, và Đại học Y Chiết Giang năm 1988 và trở thành Đại học lớn nhất của Trung Quốc (năm 2000).

Động cơ hàng đầu của việc sáp nhập hình thành những đại học lớn là tăng sức cạnh tranh thế giới của Trung Quốc vào những năm 1990. Bài học thành công của Trung Quốc là tái cấu trúc lại bộ máy Chính phủ khiến các bộ ngành giảm tối thiểu và những trường đại học trực thuộc các bộ ngành muốn tồn tại có hai lựa chọn hoặc được giao về địa phương hoặc sáp nhập lại thành các đại học.

Trung Quốc lúc ban đầu sáp nhập cũng phải mất hơn 10 năm tranh cãi do những xung đột về văn hóa, nhân sự, áp lực quản lý các đại học quy mô lớn. Chính phủ Trung Quốc tăng cường quản lý và khuyến khích sáp nhật thông qua cơ chế trợ cấp tài chính.

"Về mô hình quản lý đang cho thấy sự bất cập trong công tác quản trị tổ chức khiến có người ví Đại học Quốc gia của ta như một "rổ khoai tây" thiếu đi sự hợp tác liên kết cần thiết. Đại học Quốc gia vừa tự chủ, các trường thành viên cũng phải tự chủ và tính độc lập của tự chủ trường thành viên khiến cho một tổ chức mất đi hoặc giảm đi tính "hữu cơ " vốn có.

Trong khi thế giới thực khoa học công nghệ và thị trường lao động rất cần những chuyên gia, những nhà chuyên nghiệp có năng lực tích hợp liên ngành thì dường như Đại học Quốc gia chưa cho thấy đươc sự hợp tác giữa các trường thành viên cùng phát triển các chương trình tích hợp như nhiều đại học trên thế giới đang làm”, Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh chỉ rõ.

Mô hình quản lý đang cho thấy sự bất cập trong công tác quản trị tổ chức khiến có người ví Đại học Quốc gia của ta như một "rổ khoai tây" thiếu đi sự hợp tác liên kết cần thiết. (ảnh minh họa: nguồn VTV)

Mô hình quản lý đang cho thấy sự bất cập trong công tác quản trị tổ chức khiến có người ví Đại học Quốc gia của ta như một "rổ khoai tây" thiếu đi sự hợp tác liên kết cần thiết. (ảnh minh họa: nguồn VTV)

Từ thực tế đó, Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh cho rằng, rõ ràng khâu lãnh đạo (leadership) có vấn đề. Đó là chưa kể dư luận cho rằng Đại học Quốc gia cần nhà lãnh đạo chuyên nghiệp, chứ không phải dành cho những ai xem đây là "chiếu nghỉ" để chuẩn bị thuyên chuyển, thăng tiến lên các nấc trong hệ thống chính trị. Bởi lẽ nếu Đại học Quốc gia chỉ là một nơi dừng chân tạm thời thì khó đòi hỏi người lãnh đạo toàn tâm toàn ý để phát triển thành một trung tâm nghiên cứu và giảng dạy mang tầm khu vực và quốc tế.

Chỉ riêng việc phát triển Đại học Quốc gia Hà Nội ở địa điểm mới (tức là ở Hòa Lạc) mà hơn một thập kỷ nay vẫn chậm chạp cho thấy những hạn chế trong khâu lãnh đạo cũng như trong việc đầu tư nguồn lực.

Cuối cùng, Tiến sĩ Vinh cho đó là văn hoá tổ chức còn theo bám vào các trường thành viên và khó có sự thống nhất văn hoá tổ chức của một đại học nếu thiếu đi một tầm nhìn và đường lối lãnh đạo đúng đắn thuyết phục trong tổ chức.

Điều này có thể là rào cản cho sự hợp tác, khiến cho các vector không cùng phương cùng chiều với nhau tạo lên sức mạnh tổng hợp của các trường thành viên. Tổ chức phải là một khối thống nhất trong đa dạng đòi hỏi phải được quản trị chuyên nghiệp và quán triệt tinh thần dân chủ trong các quyết định liên quan đến lợi ích và trách nhiệm mỗi bên liên quan trong khung khổ luật pháp.

Cuộc đấu tranh quyền lực giữa Đại học Quốc gia và các trường thành viên vẫn còn hiển hiện với yêu cầu tự chủ tối đa của trường thành viên và ý chí muốn kiểm soát quyền lực của ban lãnh đạo Đại học Quốc gia.

“Nay Đại học Quốc gia Hà Nội vừa có Giám đốc mới, hy vọng tân giám đốc toàn tâm toàn ý phát triển đại học này để đáp ứng kỳ vọng của xã hội mà không phải vì những động cơ khác”, vị này gửi gắm.

Thanh Sơn