Đổi mới kiểm tra môn Văn: Thầy cô thay đổi phương pháp giúp học trò hào hứng

23/10/2022 06:45
Trần Lý
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Đổi mới cách ra đề kiểm tra, đánh giá, đề thi môn Ngữ văn khiến việc học Văn của học sinh lớp 10 có nhiều thay đổi so với trước đây.

Công văn số 3175/BGDĐT-GDTrH về việc hướng dẫn đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn ở trường phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu “trong đánh giá kết quả học tập cuối học kì, cuối năm học, cuối cấp học, giáo viên cần tránh dùng lại các văn bản đã học trong sách giáo khoa làm ngữ liệu xây dựng các đề kiểm tra đọc hiểu và viết để đánh giá chính xác năng lực học sinh, khắc phục tình trạng học sinh chỉ học thuộc bài hoặc sao chép nội dung tài liệu có sẵn”.

Với cách tiếp cận mới, việc học Ngữ văn của học sinh lớp 10 có nhiều thay đổi so với trước đây.

Trao đổi với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, cô Ngô Thị Thảo, nhóm trưởng nhóm Ngữ văn của Trường Trung học phổ thông Hồng Đức (Hải Dương) cho rằng, triển khai đổi mới giúp học sinh chủ động, tích cực hơn so với cách học cũ. Tuy nhiên, vì cũng đã quen với việc “thầy đọc trò chép” nên vẫn nhiều em còn thụ động.

Ngoài ra, sách giáo khoa mới có phần chuyên đề bao gồm những nội dung kiến thức chuyên sâu, không dành cho học sinh đại trà. Riêng đối với phần này, theo cô Thảo chỉ phù hợp với học sinh giỏi, học sinh chuyên Văn ở trường chuyên.

Bàn về việc đổi mới ra đề, cô Thảo cho biết, vì không dùng ngữ liệu trong sách giáo khoa nên cô phải tìm kiếm ngữ liệu ở các nguồn khác như: các kho học liệu điện tử uy tín hoặc trên mục văn nghệ của các trang báo, ví dụ như mục văn nghệ của báo Hải Dương. Bên cạnh đó, cô Thảo cũng thường xuyên căn cứ vào những cuốn sách của các nhà xuất bản để tìm ngữ liệu, sau đó xây dựng câu hỏi.

Dựa vào hướng dẫn và chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng với tinh thần của các bộ sách. Cô Thảo thiết kế bài kiểm tra giữa kỳ gồm 2 phần: phần đọc hiểu và phần làm văn theo tỷ lệ 5-5. Trong phần đọc hiểu, xây dựng 10 câu hỏi bao gồm 2 câu tự luận, 8 câu trắc nghiệm (mỗi câu 0,5 điểm) phân bổ theo các cấp độ nhận biết, thông hiểu, vận dụng.

Ma trận đề kiểm tra giữa kỳ I môn Ngữ văn của Trường Trung học phổ thông Hồng Đức (Hải Dương). Ảnh: NVCC

Ma trận đề kiểm tra giữa kỳ I môn Ngữ văn của Trường Trung học phổ thông Hồng Đức (Hải Dương). Ảnh: NVCC

Đối với phần làm văn, có thể lựa chọn viết bài văn nghị luận xã hội hoặc nghị luận văn học. Vì yêu cầu không dùng ngữ liệu trong sách giáo khoa, có thể lấy một văn bản ngoài sách nhưng thể loại tương đương với một trong số các bài được học trong sách giáo khoa.

Cô Thảo lấy ví dụ, bài 2 học về “Thơ đường luật” thì giáo viên có thể lấy một bài thơ đường luật tương đương ở ngoài sách giáo khoa lớp 10 yêu cầu học sinh cảm nhận, phân tích. Ví dụ như đề bài phân tích nhân vật trữ tình trong bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương hoặc phân tích nội dung, nghệ thuật của bài “Thu điếu” hoặc “Thu vịnh” của Nguyễn Khuyến.

“Ngữ liệu trên mạng nhiều nhưng trước khi xây dựng một đề bài, tôi luôn kiểm tra những câu hỏi xem trên mạng có không, nếu có thì phải xây dựng câu hỏi khác. Điều này tránh được việc học sinh có thể tìm kiếm và chép mạng, đảm bảo việc giáo viên ra đề và ôn tập cho học sinh”, cô Thảo nhấn mạnh.

Từ đổi mới kiểm tra, đánh giá, thi cử sẽ kéo theo việc đổi mới cách dạy và ôn tập. Để học sinh chủ động trong việc tìm tòi và tiếp thu kiến thức, đồng thời để phù hợp với học sinh có trình độ và nhận thức khác nhau, cô Thảo đã kết hợp cả 2 phương pháp dạy. Đó là bên cạnh việc giao phiếu công việc cho các em học khá, tích cực tìm tòi, sáng tạo thì đối với những em chưa chủ động, khi giảng dạy trên lớp cô vẫn nhấn mạnh những phần quan trọng, yêu cầu các em ghi vào vở, học và cô sẽ kiểm tra.

Bên cạnh đó để tăng thêm sự chủ động, cô Thảo cũng tổ chức cho học sinh đóng vai, thuyết trình trong chính tiết dạy của mình.

Tiết dạy Ngữ văn theo phương pháp mới tại Trường Trung học phổ thông Hồng Đức (Hải Dương). Ảnh: NVCC

Tiết dạy Ngữ văn theo phương pháp mới tại Trường Trung học phổ thông Hồng Đức (Hải Dương). Ảnh: NVCC

“Tôi thấy rằng, với cách dạy này, học sinh cảm thấy hào hứng hơn so với cách học cũ. Đồng thời, nó cũng giúp các em học sinh tập trung, chủ động tìm hiểu và làm bài.

Vì là năm đầu triển khai chương trình mới với lớp 10 nên có thể học sinh và giáo viên còn nhiều bỡ ngỡ, vì vậy, tôi hi vọng rằng, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ xây dựng ma trận tập huấn chung cho ba bộ sách, có sự chỉ đạo thống nhất về những nguồn tài liệu cho giáo viên tham khảo, các bài giảng mẫu, cung cấp thêm những nguồn ngữ liệu để việc thiết kế đề thi, đề minh họa của giáo viên được sát hơn với mục đích của chương trình”, cô Thảo nói.

Sau một thời gian triển khai dạy, học và ra đề kiểm tra, cô Lương Thị Thu Trang, giáo viên môn Ngữ văn của Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện Yên Dũng và Trường Cao đẳng nghề Công nghệ Việt-Hàn ở tỉnh Bắc Giang cho hay:

Vì đã quen với lối dạy và học cũ nên khi đổi mới chương trình, đổi mới kiểm tra, đánh giá sẽ gây khó khăn cho nhiều em học sinh, đặc biệt là những học sinh giáo dục thường xuyên có sức học khá yếu. Vì vậy, lúc ra đề kiểm tra, tổ Ngữ văn của trường cũng phải tính toán nhiều vì sợ lấy ngữ liệu bên ngoài sách thì các em sẽ không làm được bài.

Cô Trang cũng cho biết, trong mỗi tiết dạy, dù đã cố gắng diễn đạt ý chính, nội dung trọng tâm và khuyến khích học sinh tương tác với nhau, tuy nhiên nhiều em học sinh vẫn ngại phát biểu, thiếu tính chủ động và còn phụ thuộc nhiều vào giáo viên. Nhận thấy điều đó, cô Trang đã triển khai phương pháp dạy mới, tăng tương tác giữa học sinh - giáo viên; học sinh - học sinh.

Cô Lương Thị Thu Trang trong tiết dạy Ngữ văn của mình. Ảnh: NVCC

Cô Lương Thị Thu Trang trong tiết dạy Ngữ văn của mình. Ảnh: NVCC

“Với mỗi bài giảng, tôi đều thiết kế phiếu học tập và giao cho các em vào buổi hôm trước để các em học sinh có thời gian chuẩn bị, điều này giúp nâng cao tính chủ động, tự tìm hiểu của học sinh. Đồng thời, cũng giúp học sinh nhớ kiến thức lâu hơn.

Ngoài ra, để học sinh quen dần với việc ngữ liệu đề thi sẽ không có trong sách giáo khoa, tránh sự phụ thuộc, tôi cũng thường xuyên thiết kế những bài thực hành lấy ngữ liệu ngoài sách để học sinh rèn luyện. Bên cạnh đó, tạo điều kiện cho học sinh luyện nói nhiều, luyện trình bày giúp các em tự tin và trau dồi vốn từ ngữ”, cô Trang nói.

Trần Lý