Mục đích của việc giáo viên viết sáng kiến, ngoài xét các danh hiệu thi đua, còn mang lại nhiều lợi ích cho cả giáo viên, học sinh và ngành giáo dục nói chung.
Có thể nói đây là một trong những biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học, bởi giáo viên được chia sẻ những kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy hiệu quả giúp học sinh tiếp thu kiến thức tốt hơn phục vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Đồng thời, sáng kiến là sản phẩm sáng tạo của giáo viên nhằm đáp ứng nhu cầu đặt ra trong thực tiễn, có giải pháp mới phù hợp với điều kiện từng đối tượng học sinh; qua đó giáo viên được nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, khả năng phân tích, tổng hợp và giải quyết vấn đề.
Tuy nhiên, không phải tất cả sáng kiến đều bổ ích. Bên cạnh những sáng kiến chất lượng, được nghiên cứu và áp dụng hiệu quả, mang lại những cải tiến đáng kể cho hoạt động dạy và học thì trong thực tế vẫn có sáng kiến chưa được ứng dụng hiệu quả vào thực tiễn giảng dạy.

Một sáng kiến là một công trình khoa học
Theo quy định tại Điều 3, Nghị định 13/2012/NĐ-CP ban hành điều lệ sáng kiến: “Sáng kiến là giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý, giải pháp tác nghiệp, hoặc giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật (gọi chung là giải pháp), được cơ sở công nhận nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
a) Có tính mới trong phạm vi cơ sở đó;
b) Đã được áp dụng hoặc áp dụng thử tại cơ sở đó và có khả năng mang lại lợi ích thiết thực;
c) Không thuộc đối tượng bị loại trừ quy định tại khoản 2 Điều này.”
Trong ngành giáo dục, hiểu cơ bản, sáng kiến là các giải pháp sáng tạo, đổi mới trong quản lý, trong phương pháp dạy học, trong cải cách hành chính trong trường học, cơ sở giáo dục.
Theo quy định tại Điều 3, những sáng kiến vi phạm các quy tắc đạo đức xã hội hoặc đã được pháp luật công nhận quyền sở hữu trí tuệ thì sáng kiến đó không hợp lệ. Chẳng hạn như, sáng kiến có thể gây nguy hại đến môi trường hoặc kích động bạo lực, hoặc sáng kiến đã được cấp bằng sáng chế thì không được chấp nhận nhằm tránh công nhận trùng lặp.
Có thể nói, viết sáng kiến là kết quả của một công trình nghiên cứu, bởi sáng kiến chất lượng phải đáp ứng được hai điều kiện gắt gao sau đây:
Thứ nhất, sáng kiến phải đảm bảo mới mẻ, sáng tạo. Tính mới được giải thích rõ tại khoản 1, Điều 4, Nghị định 13/2012/NĐ-CP:
“Một giải pháp được coi là có tính mới trong phạm vi một cơ sở nếu tính đến trước ngày nộp đơn yêu cầu công nhận sáng kiến, hoặc ngày bắt đầu áp dụng thử hoặc áp dụng lần đầu (tính theo ngày nào sớm hơn), trong phạm vi cơ sở đó, giải pháp đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
a) Không trùng với nội dung của giải pháp trong đơn đăng ký sáng kiến nộp trước;
b) Chưa bị bộc lộ công khai trong các văn bản, sách báo, tài liệu kỹ thuật đến mức căn cứ vào đó có thể thực hiện ngay được;
c) Không trùng với giải pháp của người khác đã được áp dụng hoặc áp dụng thử, hoặc đưa vào kế hoạch áp dụng, phổ biến hoặc chuẩn bị các điều kiện để áp dụng, phổ biến;
d) Chưa được quy định thành tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm bắt buộc phải thực hiện.”
Trong phạm vi trường học, tính mới được hiểu cơ bản là, không được sao chép từ các sáng kiến đã có hoặc chưa được công khai rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, không được trùng lặp với các sáng kiến đã công bố và chưa thành tiêu chuẩn bắt buộc. Qua nhiều năm chấm sáng kiến, người chấm nhận thấy một đề tài mà nhiều giáo viên viết, xét về nội dung, cơ bản là gần giống nhau, chỉ thay tên trường tên lớp, tên người viết và một sửa chữa một ít cho khác.
Chẳng hạn, cùng nghiên cứu về kỹ năng đọc hiểu, có một số tên sáng kiến na ná nhau như: “Nâng cao năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh lớp 10”, “Rèn luyện kỹ năng đọc hiểu văn học cho học sinh trung học phổ thông”, “Biện pháp nâng cao năng lực đọc hiểu văn bản trong môn Ngữ văn cho học sinh 11”. Ba sáng kiến đều hướng đến mục tiêu nâng cao năng lực của học sinh, đặc biệt là kỹ năng đọc hiểu.
Điều đáng nói, tên ba sáng kiến tưởng như khác nhau nhưng về ngữ nghĩa thì giống nhau. Những cụm từ như “nâng cao năng lực”, “rèn luyện kỹ năng”, “biện pháp nâng cao năng lực” làm cho các tên sáng kiến thiếu đi sự độc đáo, khác biệt. Điều đó cũng chưa quan trọng, nếu nội dung sáng kiến được triển khai khác biệt nhau thì vẫn chấp nhận, công nhận. Nhưng nội dung không có sự khác biệt đáng kể.
Thứ hai, sáng kiến phải được áp dụng hoặc áp dụng thử tại cơ sở người viết và có khả năng mang lại lợi ích thiết thực. Điều đó được giải thích tại khoản 2, Điều 4, Nghị định 13/2012/NĐ-CP:
“Một giải pháp được coi là có khả năng mang lại lợi ích thiết thực nếu việc áp dụng giải pháp đó có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế (ví dụ nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, nâng cao hiệu quả kỹ thuật), hoặc lợi ích xã hội (ví dụ nâng cao điều kiện an toàn lao động, cải thiện điều kiện sống, làm việc, bảo vệ môi trường, sức khỏe con người).”
Trong lĩnh vực giáo dục, sáng kiến được coi là có khả năng mang lại lợi ích thiết thực khi nó có thể góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, cải thiện điều kiện học tập và giảng dạy.
Sáng kiến sáng tạo ra phương pháp dạy học mới và có thể áp dụng vào giảng dạy hiệu quả như sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy Ngữ văn, hoặc sử dụng phần mềm học tập tương tác giữa thầy và trò, giữa trò và trò. Có thể hiểu, sáng kiến chất lượng là sáng kiến có khả năng mang lại hiệu quả thiết thực.
Chẳng hạn, sáng kiến “Sử dụng mã hóa văn bản để tăng cường khả năng ghi nhớ tác phẩm văn học”, tên đề tài mới lạ, khả năng trùng lặp thấp, bởi sáng kiến đề xuất việc có thể có ít người nghiên cứu. Nhưng văn học là nghệ thuật ngôn từ và việc mã hóa văn bản sẽ làm mất đi vẻ đẹp, sự tinh tế của ngôn ngữ. Có thể, học sinh sẽ chỉ tập trung vào việc ghi nhớ các ký hiệu mà bỏ qua việc cảm thụ giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Có thể kết luận, sáng kiến trên không mang lại hiệu quả thiết thực trong việc phát triển năng lực văn học của học sinh. Thay vào đó, nó có thể gây ra những tác động tiêu cực đến quá trình học tập và cảm thụ văn học của học sinh.
Một số lưu ý thêm khi viết sáng kiến
Ngoài quy định về tính mới, sáng tạo và tính hiệu quả thì sáng kiến của giáo viên cần lưu ý thêm những lưu ý sau để có thêm cơ sở công nhận.
Thứ nhất, viết sáng kiến cần chú ý đến tính khoa học. Điều này thể hiện ở cách trình bày luận đề, luận điểm, luận cứ, luận chứng.
Luận đề cần súc tích, nêu bật được thực trạng, mục tiêu, ý nghĩa và giới hạn của sáng kiến. Luận điểm cần sắc bén, đưa ra các biện pháp tổ chức thực hiện cụ thể, có tính khả thi. Luận cứ xác thực, dựa trên các phương pháp hoạt động thực tế, có căn cứ khoa học rõ ràng.
Luận chứng thuyết phục bằng các minh chứng cụ thể (số liệu, hình ảnh, kết quả thực nghiệm) để chứng minh tính đúng đắn của sáng kiến.
Đặc biệt, nội dung được trình bày có sự liên kết chặt chẽ giữa các vấn đề; sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát để làm rõ vấn đề.
Thứ hai, sáng kiến cũng cần chú ý đến hình thức trình bày. Bố cục phải rõ ràng, trình bày nội dung theo bố cục quy định, đảm bảo tính khoa học. Từ ngữ, ngữ pháp thật chính xác, tránh sử dụng các thuật ngữ mơ hồ, khó hiểu. Kiến thức được hệ thống hóa một cách chặt chẽ, phù hợp với đổi mới giáo dục hiện nay. Sáng kiến được soạn thảo trên máy tính và in chỉn chu, bìa sáng kiến ghi rõ ràng các thông tin cần thiết.
Thứ ba, sáng kiến phải phù hợp với đối tượng và điều kiện thực tế. Sáng kiến phải được nghiên cứu trên nền đặc điểm tâm lý, nhận thức của học sinh tại trường. Khi áp dụng vào thực tế, sáng kiến phải phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất hiện có của trường.
Hơn nữa, sáng kiến phải phù hợp với năng lực giáo viên, có thể được thực hiện bởi giáo viên tại trường.
Chẳng hạn như “Sử dụng trò chơi tương tác trên điện thoại thông minh để ôn tập kiến thức văn học cho học sinh lớp 12” là một gợi ý phù hợp để nghiên cứu.
Học sinh 12 là đối tượng đang trong giai đoạn ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông, cần hệ thống hóa và củng cố kiến thức văn học. Học sinh nào cũng có điện thoại thông minh, đây là điều kiện thực tế phổ biến hiện nay.
Như vậy, một sáng kiến có chất lượng phải trải qua một quá trình nghiên cứu vất vả nhưng bằng tình yêu nghề, lòng say mê nghiên cứu sẽ tạo động lực cho giáo viên nâng cao chất lượng sáng kiến của mình; từ đó nâng cao hiệu quả đào tạo, hướng đến một nền giáo dục toàn diện.
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.