Người thầy gần 20 năm “vượt núi băng rừng” gieo chữ cho học sinh vùng sâu, vùng xa

31/12/2025 06:58
Minh Châu - Sinh viên Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP.HCM
Theo dõi trên Google News
0:00 / 0:00
0:00

GDVN - Không chỉ dạy chữ, thầy Ninh Văn Dậu còn lặng lẽ đi tìm, lắng nghe và chuyển ngữ những câu chuyện cổ đã nuôi dưỡng tâm hồn bao thế hệ người Jrai.

Sau gần 20 năm gắn bó với buôn làng, thầy Ninh Văn Dậu (sinh năm 1981, giáo viên Ngữ văn Trường Trung học phổ thông Đinh Tiên Hoàng, xã Ia Hdreh, tỉnh Gia Lai) đã để lại nhiều dấu ấn với hành trình vận động học sinh tới trường và sưu tầm các câu chuyện cổ mang đậm bản sắc văn hóa của người Jrai.

Lần theo con đường mòn của buôn làng ở xã Ia HDreh, trong căn phòng nhỏ của khu tập thể giáo viên, tôi gặp thầy Dậu với mái tóc xoăn đặc biệt, giọng nói trầm ấm, vang vọng âm hưởng của đại ngàn. Phải trò chuyện với thầy, mới cảm nhận được tâm huyết và tình yêu mà thầy dành cho văn hoá Jrai và học trò vùng khó.

Gần 20 năm gắn bó với buôn làng, nỗ lực vận động học sinh tới trường

Sau khi tốt nghiệp Trường đại học Sư phạm Quy Nhơn (nay là Trường Đại học Quy Nhơn), năm 2007, thầy Dậu đặt chân đến mảnh đất Krông Pa công tác. Những năm đầu, thầy được một gia đình người địa phương cho ở nhờ. Từ đó, “ngọn lửa” tình yêu văn hoá Jrai trong thầy bắt đầu nhen nhóm.

Nhớ lại những lần đến nhà già làng nghe kể khan, kể sử thi, thầy Dậu hào hứng chia sẻ: "Hình ảnh ngọn lửa bập bùng bên bếp lửa phản chiếu qua ánh mắt người nghe, tiếng kể của các già làng trầm bổng vang lên giữa căn nhà sàn hoà khiến lòng người xốn xang một cách kỳ lạ.

Hằng năm cứ khoảng từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau, tiếng cồng chiêng của Lễ bỏ mả, đâm trâu, Yang Pơtao Apui… từ trong buôn làng vọng lại, lúc trầm, lúc ngân, có khi chộn rộn như thúc giục, mời gọi lòng người, có khi khắc khoải như níu bước người đi xa, mỗi lần nghe tiếng chiêng chân tôi như muốn quay lại buôn làng”.

anh-4-5.jpg
Thầy Dậu thường mặc trang phục thổ cẩm mỗi khi đến nhà các già làng hay tham gia lễ hội. Ảnh: NVCC

Nhưng để chạm vào văn hóa Jrai, điều đầu tiên thầy phải vượt qua là rào cản ngôn ngữ. “Tất cả những điều khiến con người đến được với nhau và ở lại bên nhau đều bắt đầu từ ngôn ngữ,” thầy nói.

Thầy Dậu cho biết hiện tại, trình độ tiếng Jrai của mình chỉ ở mức giao tiếp cơ bản hằng ngày. “Nhưng chừng đó thôi cũng quý lắm. Người Jrai vốn khiêm nhường, ít mở lòng nhưng khi mình nói được tiếng của họ, họ dễ dàng gỡ bỏ sự e dè, sẵn sàng dốc bầu tâm sự, chia sẻ những điều mà mình muốn tìm hiểu về đời sống của họ”, thầy Dậu tâm sự.

Tình yêu văn hoá ấy lớn dần khi thầy cảm nhận sự gần gũi của bà con. Dù đến buôn nào, thầy cũng được đón chào như người thân trong gia đình. Cách họ mời nước, mời rượu khiến thầy thấy mình trở thành một phần của buôn làng.

Trong lớp học của thầy Dậu, văn hoá Jrai không nằm ngoài lề mà thấm đẫm vào từng bài giảng. Khi dạy về văn học dân gian, về đặc trưng thể loại hay so sánh truyện cổ giữa các dân tộc, thầy đều lồng ghép những câu chuyện mình sưu tầm được. Cả lớp như được mở ra một cánh cửa bước vào thế giới sử thi, truyện cổ và tiếng cồng, tiếng chiêng.

Nhắc về thầy Ninh Văn Dậu, người ta lại nhớ về câu chuyện gây xúc động với nhiều người: “Thầy đã lấy được em về!”

Năm 2017, Ksor Gôl - khi ấy đang học lớp 12 phải nghỉ học để vào rẫy làm mì nuôi gia đình. Suốt nhiều ngày không thấy Gôl đến lớp, lòng thầy Dậu nóng như lửa đốt. Biết em ở trong rẫy, thầy Dậu cùng thầy Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Đinh Tiên Hoàng khi ấy là thầy Trần Văn Thế (hiện thầy là Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Nguyễn Du, Gia Lai) chạy hơn 20km đường đèo dốc vào rẫy nằm sâu trong lòng hồ Ia HDreh đón Gôl về. Trước đó, thầy Dậu đã hơn 10 lần vào rẫy thuyết phục Gôl trở lại trường.

Giữa cái nắng chang chang của vùng chảo lửa Krông Pa, Gôl đang thoăn thoắt cạo mì giúp bố mẹ, khuôn mặt em lấm lem, đen đúa, đầm đìa mồ hôi, đôi tay dính đầy mủ sắn, ngẩng lên thấy thầy Dậu khiến cậu học trò như muốn bật khóc.

Dù đã chuyển công tác nhưng thầy Trần Văn Thế vẫn nhớ như in ngày cùng thầy Dậu lên rẫy: “Trên đường đi, thầy Dậu lộ rõ nhiều trăn trở. Đến nơi, thầy lặng lẽ ngồi xuống tâm sự với học trò bên đống mì khô đã thu hoạch, nét mặt thầy đầy suy tư, ánh mắt vừa xót xa vừa kiên quyết”.

anh-5-3.jpg
Thầy Dậu cùng thầy hiệu trưởng vượt hơn 20 km vào rẫy đón Ksor Gôl về năm 2017. Ảnh: NVCC

Các thầy vừa mở lời, Gôl đã trả lời ngay: “Em xin nghe thầy, em sẽ ngồi lên xe máy về cùng thầy ngay bây giờ...”. Thầy Dậu nhớ lại: “Cảm giác như vừa giành được huy chương”.

Nhưng Ksor Gôl không phải là trường hợp duy nhất mà thầy Dậu nỗ lực vận động quay lại trường. Là học trò được thầy Dậu nhận đỡ đầu, thầy Nay Lép (hiện là giáo viên Trường Trung học phổ thông Tôn Đức Thắng, Gia Lai) nghẹn ngào: “Thầy đã cứu tôi một đời”. Năm 2015, khi đang là học sinh cuối cấp, trong cái túng quẫn, tối tăm cùng cực của cái nghèo, Nay Lép bỏ học, ở nhà phụ anh chị làm mì.

Biết được hoàn cảnh của cậu học trò, thầy Dậu lại đi vận động, rồi nhận học sinh làm con nuôi.

“Thầy đi vận động riết, thấy tội thầy, thương thầy nên tôi đi học lại. Hồi đó thầy nói: "Thầy biết hoàn cảnh em, nhưng để cứu em thoát hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh này em hãy ráng học lên, chỉ có học thì sau này mới có thể giúp em có cuộc sống ổn định hơn’”, thầy giáo trẻ nhớ lại.

Nhưng cũng có những trường hợp khiến thầy Dậu day dứt mãi. Một nữ sinh bị gia đình ép nghỉ học lấy chồng. Một đêm nọ, điện thoại thầy rung lên. Bên kia là giọng của một nữ sinh nấc lên yếu ớt: “Thầy ơi cứu em…”. Tiếng vũng vẫy như xé toạc màn đêm. Có lẽ thầy Dậu là chiếc phao cuối cùng để em bấu víu vào.

“Cả đêm hôm ấy, tôi gần như không ngủ được. Sáng hôm sau, tôi liền lấy xe chạy xuống tận nhà em. Khi đến nơi, mọi thứ đã chuẩn bị đâu vào đấy. Rượu ché, bò, heo, trang phục truyền thống và cả chú rể nữa… đã sẵn sàng”, thầy nhớ lại.

Sau khi tâm sự với gia đình, thầy hiểu rằng không thể thay đổi được nữa. Mỗi lần nhắc lại, giọng thầy chùng xuống: “Giá như tôi biết sớm hơn, chỉ 1 tháng thôi…”

Thầy Dậu cho biết, nhiều người hỏi sao thầy không chuyển đi nơi khác, có phải vì không đủ điều kiện hay năng lực không… nhưng những câu hỏi đó không phản ánh đúng thực tế.

Thầy nói, chỉ những ai sống lâu năm, thật sự gắn bó với học sinh và hiểu đời sống của bà con nơi đây mới biết được lý do thầy ở lại. Rồi thầy chậm rãi nói: “Quan điểm của tôi đơn giản lắm. Trong cuộc sống hay trong giảng dạy, phải lấy yêu thương để nhân rộng yêu thương, để yêu thương ấy ngày một lớn hơn, nhiều hơn”.

anh-6-2.jpg
Thầy Dậu được nhiều học sinh yêu quý gọi bằng “bố”. Ảnh: NVCC

Với đồng lương ít ỏi, mẹ lại mắc bệnh nhưng thầy vẫn dành dụm tiền giúp đỡ học sinh, nhận đỡ đầu các em có hoàn cảnh khó khăn. Có lẽ vì thế mà đến nay, thầy Dậu vẫn chưa lập gia đình.

Chính những tâm huyết, tình cảm này khiến thầy Dậu được nhiều học sinh yêu quý gọi bằng “bố”. “Tôi cũng xác định rõ trách nhiệm khi đã nhận các bạn làm con, tôi phải có trách nhiệm đúng như người cha của các bạn ở nhà”, thầy Dậu tâm sự.

Không chỉ là người thầy đứng lớp, thầy Dậu còn kêu gọi xây dựng ‘Giếng nước nghĩa tình’, nhờ sự kết nối của thầy, học sinh được nhận học bổng, sách giáo khoa, xe đạp, máy tính. Ngoài ra, thầy vận động được máy lọc nước, bếp ga, cả một tủ sách cho ký túc xá.

Miệt mài sưu tầm và chuyển ngữ các câu chuyện cổ Jrai

Tháng 9/2025, thầy Ninh Văn Dậu đã cho ra đời tập truyện cổ Jrai với tựa đề Chàng Rít được quạt thần. Cuốn sách gồm 12 câu chuyện cổ của người Jrai như: Chàng Rít, Chị em H’Lúi, Con chim Teng Leng… Tất cả đều là những câu chuyện trong sinh hoạt hằng ngày, gắn liền với môi trường sinh thái, với cái nôi văn hoá mà người Jrai được sinh ra, lớn lên, trưởng thành và nuôi dưỡng.

anh-1-5.jpg
Thầy Ninh Văn Dậu và cuốn truyện cổ Jrai đầu tay của mình. Ảnh: NVCC

Theo thầy Dậu, chuyện cổ của người Jrai là lăng kính phản chiếu đầy đủ nhất, cụ thể nhất, sinh động nhất đời sống tinh thần của chính họ, “là bản thảo tâm hồn còn vẹn nguyên giá trị khởi thuỷ” của con người nơi đây.

Nói về tập truyện cổ, thầy Kpă Pual - nguyên Trưởng phòng Giáo dục Dân tộc (Sở Giáo dục và Đào tạo Gia Lai) cho biết nội dung cuốn truyện cổ mang giá trị giáo dục sâu sắc. Từ đó, người lớn có thể dạy trẻ sống có đạo đức, biết hướng thiện. Các thầy cô trong trường phổ thông cũng có thể dùng những câu chuyện này làm tư liệu giáo dục địa phương cho học sinh.

Trong bối cảnh truyện cổ Jrai đang đứng trước nguy cơ thất truyền, thầy Kpă Pual đánh giá cao công việc sưu tầm của thầy Dậu.

“Nếu không nhanh chóng sưu tầm, ghi lại, rất có thể chúng ta sẽ đánh mất những câu chuyện có giá trị”, thầy Kpă Pual nhấn mạnh.

Ngày nhận được tập truyện cổ Jrai đầu tay của mình, mắt thầy Dậu sáng lên, cầm cuốn sách giơ cao và… hét một tiếng thật lớn như một đứa trẻ lâu ngày mong đợi điều gì. Rồi thầy thông báo đến tất cả học sinh, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình. Thầy Dậu cho biết đó là một cảm giác rất thật, rất khó diễn tả, không phải vì điều gì to tát, chỉ đơn giản là thầy vui thật sự sau bao năm gom góp, ghi chép, chờ đợi… cuối cùng cũng thành hình, thành chữ.

Sau khi sách được xuất bản, thầy mang ngay lên trường cho học sinh đọc. Các em cho biết hầu hết các câu chuyện trong sách, các em đều từng nghe qua từ ông bà, cha mẹ. Điều ấy khiến thầy càng thêm xúc động. “Tôi vui vì sản phẩm tinh thần của nhân dân đã trở về với nhân dân, trở về đúng môi trường của nó. Nhân dân sáng tạo, nhân dân gìn giữ và nhân dân hưởng thụ”, thầy Dậu chia sẻ.

anh-2-5.jpg
Thầy Ninh Văn Dậu giới thiệu và tặng cuốn truyện cổ cho các đồng nghiệp. Ảnh: NVCC

Ngoài ra, thầy còn giới thiệu và tặng sách cho các đồng nghiệp trên địa bàn. Cô Nguyễn Thị Hằng (giáo viên Trường Trung học phổ thông Chu Văn An, Gia Lai) đánh giá đây là nguồn tư liệu vô cùng quý giá.

“Cuốn sách giúp người dạy và người học có thêm hiểu biết về văn hoá, văn học của người Jrai, giúp học sinh tại địa phương tiếp cận gần hơn với nền văn học dân gian trên địa bàn mình sinh sống. Từ đó, giúp học sinh có ý thức hơn trong việc bảo tồn những giá trị văn hoá mà cha ông để lại”, cô Hằng chia sẻ.

Đằng sau cuốn sách hơn 100 trang ấy là hành trình dài mà thầy Dậu cất bước, men theo âm thanh rộn rã của cồng chiêng, đi khắp các nẻo đường ở buôn làng để hòa nhập với cuộc sống nơi đây.

Thầy Dậu kể, trong những lần tham gia lễ hội, thấy các già làng thường kể và hát những cái gì đó mà thầy không thể hiểu. Thế nhưng, với chuyên môn của mình, thầy Dậu cảm nhận được mình đang sống trong không khí của sử thi và những lời kể khan khi trầm bổng, ngân nga, khi trầm buồn, man mác. Tuy nhiên, những năm gần đây, những già làng – người có sứ mệnh kể khan kết nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai đã dần về với tiên tổ, với đại ngàn.

Do đó thế hệ trẻ ngày càng ít được nghe kể và nhất là ít biết kể. “Nếu không lưu giữ lại bằng văn bản, rất có thể vốn văn hóa bản địa sẽ mất dần đi. Thế là tôi nảy ra một ý nghĩ: phải lưu lại được những câu chuyện này”, thầy Dậu trải lòng.

Trong quá trình đi sưu tầm cùng học trò, có nhiều tình huống hài hước, thậm chí xúc động khiến thầy Dậu không thể quên. Nhớ lại trong lần tới nhà của một cụ bà, mọi thứ đã chuẩn bị hết, thì bà liền bảo: “Phải có bia thì mình mới kể…”

“Có một số cụ phải có một chút men vào mới có thể kể, họ cần đủ độ say mê, khi kể chuyện mới rạch ròi, không bị đứt đoạn”, thầy Dậu cho biết.

anh-3-7.jpg
Thầy Dậu cùng học sinh trong một chuyến đi sưu tầm chuyện cổ từ các già làng. Ảnh: NVCC

Hay trong lần đến nhà già làng Ơi Hưn, mọi thứ đã sẵn sàng, thì già làng Ơi Hưn nói: “Chèng ơh, chèng ơh”. Thầy cứ nghĩ là già đồng ý nên quay sang bảo học sinh bắt đầu. Nhưng đám học trò cười phá lên, giải thích rằng thầy hiểu nhầm: cụ chưa chấp thuận mà nói “không được, không được” trong tiếng bản địa. Thế rồi thầy quyết tâm học tiếng Jrai, “dù không biết nhiều nhưng phải biết cơ bản”, thầy nói.

Theo thầy Dậu, khó khăn nhất khi biên soạn chính là việc chuyển ngữ từ tiếng Jrai sang tiếng Việt, bởi những người am tường về mảng văn hoá dân gian rất ít; những người yêu thích thì hạn chế về ngôn ngữ bản địa; những người đáp ứng được yêu cầu lại không thể dành toàn thời gian cho việc sưu tầm, chuyển ngữ… May mắn, thầy có người đồng hành đặc biệt là thầy Kpă Pual - nguyên Trưởng phòng Giáo dục Dân tộc (Sở Giáo dục và Đào tạo Gia Lai). Tập truyện cổ mà thầy Dậu sưu tầm gồm 12 câu chuyện và toàn bộ phần chuyển ngữ sang tiếng Việt đều do thầy Pual thực hiện.

Để sưu tầm, thầy Dậu còn không ngần ngại tự trích tiền lương của mình bồi dưỡng cho học sinh khi đi quay các già làng kể chuyện cùng, rồi hỗ trợ thêm cho các già làng.

Có lẽ, sau buổi trò chuyện hôm ấy, tôi hiểu một điều: thầy Dậu không chỉ viết lại truyện cổ Jrai, thầy đang viết tiếp số phận cho cả một thế hệ học trò vùng cao.

anh111.jpg
Thầy Ninh Văn Dậu ký tặng sách cho tác giả. Ảnh: Minh Châu.

Một số thành tích nổi bật của thầy Ninh Văn Dậu sau gần 20 năm gắn bó với sự nghiệp giáo dục:

- Được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen vì đã có thành tích trong công tác, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

- 2 lần được tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.

- 3 lần được tặng Bằng khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.

- 10 lần Đạt danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở” (từ năm 2013 đến năm 2024) và 01 lần đạt danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cấp Tỉnh” (năm 2024).

- 2 lần được Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Gia Lai tặng Giấy khen vì đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua “Duy trì sĩ số học sinh”.

- 4 lần được Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Gia Lai tặng Giấy khen vì đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua “Nâng cao tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông”.

- Được Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Gia Lai tặng Giấy khen vì “Đã có thành tích xuất sắc tiêu biểu trong phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2015–2020”.

- 2 lần được Hiệu trưởng tặng Giấy khen vì “Đạt thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2010 - 2015” và “Cá nhân điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2020 - 2025”.

- Có 5 bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí chuyên ngành uy tín trong nước.

- Năm 2017, được Báo Tuổi trẻ trao tặng danh hiệu “Bạn đồng hành quanh tôi” để ghi nhận tinh thần hết lòng vì học trò.

Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam phát động cuộc thi viết "Sống Đẹp - Sống Xanh" lần thứ hai với chủ đề "Khát Vọng Xanh". Cơ cấu giải thưởng của cuộc thi gồm:

- 1 giải Nhất: 1 suất học bổng trị giá 10 triệu đồng tiền mặt.

- 2 giải Nhì: mỗi giải 1 suất học bổng trị giá 5 triệu đồng tiền mặt.

- 2 giải Ba: mỗi giải 1 suất học bổng trị giá 3 triệu đồng tiền mặt.

- 20 giải Khuyến khích: mỗi giải 1 suất học bổng trị giá 1 triệu đồng tiền mặt.

Đối tượng tham gia cuộc thi viết là công dân, ưu tiên học sinh Việt Nam có tác phẩm phù hợp với nội dung cuộc thi.

Nội dung bài viết hướng tới lan tỏa, chia sẻ những câu chuyện, góc nhìn, tích cực nhằm xây dựng thế hệ trẻ Việt Nam văn minh, đủ tố chất là công dân toàn cầu, giữ gìn bản sắc Việt Nam; Chia sẻ những câu chuyện, những tấm gương trong việc bảo vệ môi trường xanh và phát triển bền vững của trái đất; Đưa các ý kiến, giải pháp, góp ý trong việc giáo dục – đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam về Sống đẹp - Sống xanh, đón chào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thời gian nhận bài: đến hết ngày 31/05/2026.

Bài viết gửi về hòm thư điện tử: toasoan@giaoduc.net.vn hoặc songdep@giaoduc.net.vn.

Minh Châu - Sinh viên Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP.HCM