Tiến sĩ Lê Viết Khuyến nêu giải pháp để Việt Nam phân tầng giáo dục đại học

21/11/2022 06:48
Phạm Minh
0:00 / 0:00
0:00
GDVN- Tiến sĩ Lê Viết Khuyến: "Một nền giáo dục đại học tốt cần có sự phân tầng, nghĩa là chấp nhận sự đa dạng về sứ mệnh của các trường đại học"

Từ trước đến nay, Nhà nước luôn coi trọng hệ thống giáo dục địa phương, trong đó có hệ thống trường sư phạm địa phương, luôn xem giáo dục địa phương là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống giáo dục quốc gia.

Tuy nhiên, hiện nay một số địa phương do đang gặp khó khăn trong việc huy động ngân sách hoạt động cho các đơn vị hành chính sự nghiệp công lập (trong đó có các cơ sở giáo dục địa phương), các trường cao đẳng sư phạm địa phương lại bị cắt giảm nhiệm vụ, nên xuất hiện xu hướng sáp nhập các trường này vào các cơ sở giáo dục - đào tạo, thậm chí là thực hiện sáp nhập vào những cơ sở giáo dục khác sứ mệnh.

Theo đánh giá của một số chuyên gia, việc sáp nhập này là một động thái rất bất an, có thể dẫn đến nguy cơ làm suy yếu và tạo ra sự rối ren cho hệ thống giáo dục đại học - cao đẳng.

Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Lê Viết Khuyến - nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), hiện là Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến - nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), hiện là Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam. (Ảnh: Phạm Minh)

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến - nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), hiện là Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam. (Ảnh: Phạm Minh)

Phóng viên: Thưa Tiến sĩ Lê Viết Khuyến, ông có thể chia sẻ về thực trạng và nguy cơ đối với sự tồn tại của hệ thống trường cao đẳng sư phạm địa phương hiện nay?

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến: Theo Luật Giáo dục 2019, tại các địa phương (tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương) hiện chỉ có 2 loại hình cơ sở giáo dục đại học địa phương là trường cao đẳng sư phạm địa phương và trường đại học địa phương (đều do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý). Các trường cao đẳng khác thuộc giáo dục nghề nghiệp do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý và không thuộc về giáo dục đại học.

Tại Việt Nam, hệ thống các trường cao đẳng sư phạm địa phương được hình thành từ rất lâu (gần 60 năm), trực thuộc chính quyền địa phương và được giao nhiệm vụ đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở, đáp ứng trực tiếp yêu cầu của địa phương. Trong khi đó, các trường đại học sư phạm trước đây chỉ đào tạo giáo viên trung học phổ thông và một số năm gần đây mới được giao thêm nhiệm vụ đào tạo giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở ở trình độ đại học với số lượng hạn chế.

Tuy nhiên, hiện nay các trường cao đẳng sư phạm địa phương đang gặp phải những khó khăn rất lớn, luôn có nguy cơ bị sáp nhập hoặc giải thể. Có một số nguyên nhân sau:

Thứ nhất, do sự thay đổi trình độ chuẩn của giáo viên phổ thông theo Luật Giáo dục năm 2019 nên chỉ tiêu tuyển sinh đào tạo giáo viên tiểu học và trung học cơ sở (nguồn tuyển sinh chính của trường cao đẳng sư phạm trước đây) bị cắt chuyển hẳn cho khoảng 10 trường đại học sư phạm trong khi hầu hết các trường này lại chưa có bề dày kinh nghiệm trong việc đào tạo các loại giáo viên này.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Thứ hai, do định hướng quy hoạch hệ thống trường sư phạm của Bộ Giáo dục và Đào tạo nên một số trường cao đẳng sư phạm địa phương đã được sáp nhập vào các trường đại học sư phạm trọng điểm quốc gia. Đây là một sự gán ghép khiên cưỡng giữa các trường khác đẳng cấp và sứ mạng, gây thiệt thòi lớn cho những trường địa phương có đẳng cấp thấp hơn khi phải chấp nhận tiêu chuẩn của trường đẳng cấp cao hơn trong việc bố trí sử dụng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý.

Thứ ba, ở một số địa phương, trường cao đẳng sư phạm sau khi đã teo tóp do bị cắt giảm nhiệm vụ (chỉ còn đào tạo giáo viên mầm non) đang có khả năng trở thành một khoa trong trường dạy nghề, chịu sự điều chỉnh theo hướng “nghề hóa”, tức không thuộc về giáo dục đại học.

Từ các nguyên nhân trên, qua khảo sát thực tế, có thể thấy nguy cơ tiêu vong hệ thống trường sư phạm địa phương - một hệ thống sư phạm đã được xây dựng và tồn tại gần 60 năm qua là rõ ràng.

Theo tôi, đây là một động thái có thể dẫn đến nguy cơ làm suy yếu hệ thống giáo dục đại học - cao đẳng của đất nước. Tình hình này cần sớm được chấn chỉnh.

Phóng viên: Có thể thấy, cũng như các trường cao đẳng sư phạm thì các trường đại học địa phương cũng đang có chung số phận khi có xu hướng “sáp nhập” với các trường đại học trọng điểm? Ông có nhận xét gì về thực trạng này?

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến: Kinh nghiệm thế giới cũng như thực tiễn Việt Nam nhiều năm qua cho thấy một nền giáo dục đại học tốt cần có sự phân tầng. Phân tầng ở đây chỉ có nghĩa là chấp nhận sự đa dạng về sứ mệnh của các trường đại học chứ không có nghĩa là chấp nhận những cơ sở giáo dục đại học chất lượng thấp. Trên thế giới phân tầng giáo dục đại học chủ yếu nhằm 2 mục đích:

Một là, thực hiện sự phân cấp quản lý hợp lý đối với hệ thống giáo dục đại học nhằm khắc phục những hạn chế của một hệ thống giáo dục tập trung cồng kềnh vốn là sản phẩm của thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp.

Hai là, mở ra sự công bằng hơn trong giáo dục đại học, tạo thuận lợi cho các vùng miền có mức độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, nhất là ở những địa phương kinh tế - xã hội còn chậm phát triển, sớm đạt được sự phát triển đồng đều nhờ có nguồn nhân lực trình độ cao bám sát nhu cầu đặc thù của chính địa phương đó, do người dân ở địa phương có thêm cơ hội thuận lợi được tiếp cận với giáo dục đại học.

Tuy nhiên trong thời gian vừa qua, có một hiện tượng rất đáng lo ngại là xu hướng lãnh đạo ở không ít địa phương đang cố gắng vận động sáp nhập trường đại học của địa phương mình vào một số đại học trọng điểm quốc gia để hy vọng các trường này được trở thành trường thành viên của các đại học đó. Đây là một hướng đi rất sai lầm.

Bởi lẽ,việc đưa trường đại học địa phương trở thành một trường thành viên của đại học trọng điểm quốc gia là một sự hợp nhất khiên cưỡng do hai loại trường này có sứ mệnh khác nhau, chuẩn mực kiểm định khác nhau, cơ cấu trình độ nhân lực khác nhau; nói khác đi, có đẳng cấp khác nhau.

Do đó khi trở thành trường thành viên của đại học trọng điểm quốc gia để được mang thương hiệu đẳng cấp quốc gia thì trường đại học địa phương buộc phải xem xét lại nhiệm vụ của mình, kiện toàn lại trình độ đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý, đổi mới trang thiết bị và cơ sở vật chất, thay đổi lại ngành nghề và chương trình đào tạo, trong khi trường đại học địa phương còn chưa phù hợp trước những thay đổi như vậy. Hiện nay trên thế giới không hề có kiểu gán ghép trường như vậy.

Hơn nữa, trong một đại học đa lĩnh vực trọng điểm quốc gia, các trường thành viên đều là những trường chuyên ngành, trong khi trường đại học địa phương vốn là trường đa lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực đa dạng chủ yếu phục vụ nhu cầu địa phương.

Bên cạnh đó, khi trường đại học địa phương trở thành thành viên của đại học trọng điểm quốc gia thì sứ mệnh phục vụ nhu cầu đa dạng về nguồn nhân lực trình độ cao cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và để giúp cho người dân của địa phương được thêm cơ hội tiếp cận với giáo dục đại học sẽ không còn nữa. Đây là một thiệt thòi lớn cho cộng đồng người dân tại địa phương.

Phóng viên: Vậy đâu là giải pháp để chúng ta thực hiện phân tầng giáo dục và tạo cơ hội phát triển bền vững cho các hệ thống trường đại học - cao đẳng địa phương, thưa ông?

Tiến sĩ Lê Viết Khuyến: Thứ nhất, với hệ thống trường cao đẳng sư phạm địa phương: Cần duy trì việc phân cấp quản lý công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở (kể cả việc giao chỉ tiêu và phân công công tác sau tốt nghiệp) cho các địa phương như vẫn làm từ trước tới nay.

Việc Bộ Giáo dục và Đào tạo trực tiếp nắm một hệ thống sư phạm tập trung (thông qua 10 trường sư phạm trọng điểm như dự kiến) để đào tạo mọi loại giáo viên phổ thông (bao gồm tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông) là không khả thi.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Kinh nghiệm nhiều năm quản lý hoạt động sư phạm cho phép tôi có thể khẳng định không nên xóa đi hệ thống trường sư phạm địa phương. Rất đáng lo ngại khi nhu cầu giáo viên phổ thông tăng đột ngột do nhiều lý do khác nhau như thay đổi chương trình, tăng dân số đột biến, đổi mới quy trình giáo dục… (như đã xảy ra nhiều lần trong 60 năm qua) thì lấy đâu ra các trường sư phạm địa phương để đáp ứng nhu cầu đó vì lúc đó còn đâu cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên của các trường đó nữa.

Do vậy trước mắt cần duy trì nguyên vẹn hệ thống trường cao đẳng sư phạm địa phương và có kế hoạch đầu tư toàn diện để vừa nâng cấp trình độ đào tạo giáo viên (lên đại học), vừa đa ngành hóa các trường này. Bước đi tiếp là hợp nhất với các cơ sở giáo dục đại học khác trên cùng địa phương, tổ chức lại trên cơ sở lấy trường sư phạm làm nòng cốt, như nhiều quốc gia đã làm, để hình thành một đại học địa phương đa cấp đa lĩnh vực hoàn chỉnh (Community College / University College / Rural University).

Trước mắt, chính quyền địa phương cần căn cứ vào nhu cầu thực tế về giáo viên mầm non, tiểu học và trung học cơ sở của địa phương để giao chỉ tiêu đào tạo, đồng thời với việc nâng chuẩn cho trường cao đẳng/đại học sư phạm địa phương của mình.

Riêng đối với những trường sư phạm trong thời gian còn chưa đạt chuẩn đại học như quy định ở Luật Giáo dục 2019, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần có chỉ đạo cụ thể thực hiện quy trình đào tạo kết hợp: 3 năm (tại trường cao đẳng sư phạm địa phương) + 1 năm (tại trường đại học sư phạm trọng điểm). Mô hình đào tạo này hiện nay đang được nhiều nước áp dụng và được xem như một giải pháp quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng học tập cho học sinh ở các vùng khó khăn.

Để làm được điều đó tại các địa phương cần sớm thành lập Hội đồng giáo dục sau trung học, bao gồm đại diện các sở, ban, ngành liên quan của địa phương, đại diện cộng đồng địa phương… làm chức năng tham mưu cho lãnh đạo địa phương về quy hoạch phát triển giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nói chung cũng như nguồn nhân lực cho giáo dục đào tạo nói riêng, trên cơ sở bám sát kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương qua từng thời kỳ, thậm chí qua từng năm, điều mà các chiến lược/kế hoạch ở tầm quốc gia không thể thực hiện nổi, dẫn tới việc Bộ Giáo dục và Đào tạo không thể kiểm soát nổi tình trạng thừa thiếu giáo viên như đã gặp phải trong nhiều năm qua.

Thứ hai, với hệ thống trường đại học địa phương: Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay luôn coi trọng hệ thống giáo dục địa phương nói chung và hệ thống giáo dục đại học địa phương nói riêng và xem giáo dục địa phương là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống giáo dục quốc gia…

Cho dù tạm thời đang gặp khó khăn về nguồn lực nhưng không phải vì thế mà một số địa phương phải "hy sinh" đứa con của mình là trường đại học địa phương. Trường đại học địa phương là trường đại học của địa phương, được thành lập để phục vụ cho nhu cầu đào tạo nhân lực và dân trí của cộng đồng địa phương, do đó phải được cộng đồng người dân địa phương nuôi dưỡng bằng khoản trích ra từ tiền thuế do chính họ đóng góp cho chính quyền địa phương, tức là từ ngân sách địa phương.

Chính quyền địa phương phải có trách nhiệm duy trì và hỗ trợ cho các trường địa phương của mình để các trường thực hiện đúng sứ mệnh đặt ra khi thành lập. Trong trường hợp địa phương gặp khó khăn về ngân sách đầu tư, lãnh đạo địa phương có thể cân nhắc giảm quy mô hoạt động của trường, cũng có thể vận dụng các giải pháp về xã hội hóa giáo dục để tìm kiếm thêm các nguồn lực mới cho phát triển nhà trường; tuyệt đối không nên chọn giải pháp giải thể hoặc chuyển loại hình, sứ mạng của trường.

Thứ ba, từng địa phương cần sớm vận dụng quy trình đào tạo mới trên cơ sở thực hiện chuyển đổi số để thiết lập hệ thống giáo dục mở cho mạng lưới cơ sở đào tạo tại mỗi địa phương.Đó là một hệ thống giáo dục mở rộng cửa đối với mọi người, vượt qua những hạn chế về thời gian và địa điểm, có mục tiêu cuối cùng là kiến tạo “một nền giáo dục hoàn hảo” để đảm bảo sự hoàn thiện của mỗi công dân. Hệ thống giáo dục đó tạo sự thuận tiện trong việc chuyển trường cũng như chuyển từ chương trình giáo dục này sang một chương trình giáo dục khác hoặc chuyển từ một chuyên ngành đào tạo này sang một chuyên ngành đào tạo khác.

Nói khác đi là tạo ra cơ chế liên thông trong toàn hệ thống. Nhờ vậy mọi người có thể dễ dàng theo học chương trình phù hợp nhất tùy thuộc vào sở thích, năng lực cá nhân và các biến động trong thị trường nhân lực.

Việc hỗ trợ nâng cao năng lực đồng đều trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường địa phương cũng như để điều chỉnh linh hoạt kế hoạch đào tạo nhân lực hàng năm cho địa phương không nhất thiết phải dùng hình thức sáp nhập các trường địa phương vào trường trọng điểm, mà có thể chọn các hình thức khác, ví dụ như hình thành các cụm trường liên kết trên cùng địa bàn để hỗ trợ lẫn nhau (như Ngành ta đã đề xuất tại Hội nghị đại học năm 1993) và triển khai quy trình đào tạo mới, nhằm khai thác tối đa sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống có trên địa bàn.

Các cụm trường liên kết này, trước mắt có thể gồm các trường đại học địa phương và cao đẳng sư phạm, nhưng trong tương lai gần, còn bao gồm tất cả các trường cao đẳng chuyên nghiệp, khi những trường này được các luật về giáo dục trả lại tên, sứ mệnh và cấp độ đào tạo (cấp độ 5 theo ISCED-11) như trước đây.

Qua kinh nghiệm triển khai Quy trình đào tạo mới vào cuối thập niên 90 của thế kỷ trước có thể thấy việc thiết lập một hệ thống giáo dục đại học mở thông qua triển khai quy trình đào tạo mới là hết sức cần thiết. Đặc biệt trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nếu thực hiện được chuyển đổi số đối với quy trình này, thì hy vọng đây chính là giải pháp tổng thể để duy trì sự ổn định và tạo cơ hội phát triển bền vững cho các hệ thống trường đại học - cao đẳng địa phương, trong đó có hệ thống các trường sư phạm.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!

Phạm Minh