Theo dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 86/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc công dân Việt Nam ra nước ngoài học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật, du học sinh đi học bằng ngân sách nhà nước được phép học tiếp ở nước ngoài sau khi hoàn thành chương trình đào tạo.

Bên cạnh đó, dự thảo cũng bổ sung quy định miễn bồi hoàn chi phí đào tạo trong trường hợp du học sinh không thể hoàn tất khóa học vì lý do bất khả kháng như tai nạn, bệnh tật hoặc biến cố gia đình; bổ sung quy định gia đình du học sinh có trách nhiệm thực hiện chi trả chi phí bồi hoàn (có du học sinh đi học chưa có cơ quan công tác).

Những điều chỉnh này được kỳ vọng sẽ tháo gỡ nhiều rào cản trong thực tiễn, đồng thời phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Mở ra cơ hội phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Trần Đình Lý - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: "Hiện nay, khó khăn thường gặp trong quá trình thực hiện cử cán bộ, sinh viên đi học tập ở nước ngoài là sự chậm trễ, phức tạp trong thủ tục hành chính liên quan đến ký kết cam kết, giải ngân chi phí và giám sát quá trình học tập. Bên cạnh đó, việc quy đổi và công nhận kết quả học tập ở nước ngoài tại Việt Nam vẫn chưa nhất quán, gây khó khăn cho cả đơn vị chủ quản và người học.

Ngoài ra, một số trường hợp sau khi hoàn thành chương trình không quay về đúng thời hạn hoặc không thực hiện đúng cam kết ban đầu cũng tạo ra khoảng trống trong công tác kiểm soát, ảnh hưởng đến kế hoạch nhân sự của nhà trường.

Vì vậy, đề xuất cho phép du học sinh được học tiếp ở nước ngoài là một chủ trương mang tính mở, phù hợp với xu thế hội nhập và cá thể hóa lộ trình học tập. Chính sách này giúp du học sinh có điều kiện tiếp cận tri thức quốc tế liên tục, không bị ngắt quãng giữa chừng vì các rào cản quy định. Với những người đủ năng lực và có định hướng rõ ràng, việc học tiếp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước.

Đối với nhà trường, chính sách này mở ra cơ hội phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là trong bối cảnh các trường đại học đang thực hiện tự chủ, hướng đến hội nhập quốc tế. Ngoài ra, khi người học quay trở về, họ sẽ mang theo tri thức mới, kỹ năng hiện đại, góp phần làm giàu tri thức cũng như tạo động lực đổi mới, nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ hiện tại".

c50de6538fd9398760c8.jpg
Tiến sĩ Trần Đình Lý - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC.

Dưới góc nhìn của du học sinh, Tiến sĩ Đỗ Thế Cần, cựu du học sinh du học bằng ngân sách nhà nước, hiện là Phó Trưởng phòng, Phòng Tổ chức - Hành chính, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng cho chia sẻ: “Theo tôi, một số du học sinh sau khi tốt nghiệp không quay trở về nước nhưng vẫn có những đóng góp thiết thực cho sự phát triển của quốc gia thông qua các hoạt động như nghiên cứu khoa học, thiết lập mối quan hệ hợp tác trong và ngoài nước. Những kết nối này đã và đang mở ra cơ hội để khoa học - công nghệ Việt Nam hội nhập hơn với thế giới.

Nếu được tạo điều kiện để tiếp tục nghiên cứu tại nước ngoài sau khi hoàn thành chương trình học, du học sinh hoàn toàn có thể trở thành chuyên gia đầu ngành, đóng góp lâu dài cho đất nước cả về chuyên môn lẫn mạng lưới quốc tế. Tuy nhiên, cần có quy định cụ thể để đảm bảo công bằng giữa người ở lại và người đã hoàn thành chương trình đào tạo trở về nước".

Theo thầy Cần, mặc dù có trường hợp ở lại nước ngoài vì mục đích cá nhân, nhưng cũng có trường hợp người học ở lại để tiếp tục nghiên cứu tại các viện nghiên cứu và thiết lập nhiều mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ nhà trường trong nước cử thêm giảng viên, sinh viên đi du học. Đây là những đóng góp gián tiếp nhưng có ý nghĩa lớn đối với hệ thống giáo dục Việt Nam.

Tuy nhiên, cả hai trường hợp trên đều bị áp dụng chung một mức bồi hoàn nếu không trở về. Điều này chưa phản ánh đúng bản chất từng trường hợp. Vì vậy, cần có cơ chế linh hoạt hơn để phân loại, đánh giá và xử lý phù hợp trên cơ sở đóng góp thực tế.

Chẳng hạn, người đi học bằng ngân sách ở lại nước ngoài nhưng có thể chứng minh được các công bố khoa học, công trình nghiên cứu cụ thể mỗi năm, đồng thời vẫn duy trì sự liên kết chặt chẽ với viện nghiên cứu, trường đại học trong nước để triển khai các dự án ở quy mô quốc tế thì nên được ghi nhận. Trường hợp này, cần có cơ chế đánh giá linh hoạt, dựa trên mức độ đóng góp thực tế thay vì chỉ dựa vào việc người học có trở về nước hay không.

Đồng quan điểm, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Thắng, cựu du học sinh du học bằng ngân sách nhà nước, hiện là Trưởng phòng, Phòng Đào tạo, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho hay: “Chính sách quy định việc công dân Việt Nam ra nước ngoài học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật, du học sinh đi học bằng ngân sách nhà nước chỉ phát huy hiệu quả khi được xây dựng trên cơ sở mục tiêu rõ ràng. Từ định hướng này, các hình thức hỗ trợ như học bổng, tài chính hoặc cho vay mới có thể được thiết kế phù hợp với nhu cầu thực tiễn.

Chẳng hạn, nếu cử cán bộ, giảng viên đi học theo diện Đề án 89 (Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030) thì người học sau khi hoàn thành chương trình cần trở về nước làm việc theo đúng cam kết. Ngược lại, nếu mục tiêu là phát triển đội ngũ nhân lực có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, đóng góp cho đất nước thông qua các chuỗi giá trị toàn cầu, thì địa điểm làm việc không nhất thiết phải ở trong nước.

Khi đó, chính sách hỗ trợ cần linh hoạt, tạo điều kiện cho người học tiếp tục nâng cao trình độ dựa trên cơ sở định hướng chiến lược và phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Chỉ như vậy, người học mới có thể phát huy tối đa năng lực, đóng góp hiệu quả, bền vững cho sự phát triển của đất nước”.

thay-thang-1.jpg
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Thắng, cựu du học sinh du học bằng ngân sách nhà nước, hiện là Trưởng phòng, Phòng Đào tạo, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Ảnh: website nhà trường.

Cần xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về du học sinh đi học bằng ngân sách nhà nước

Dự thảo cũng bổ sung thêm quy định về miễn bồi hoàn chi phí đào tạo trong các trường hợp bất khả kháng, bổ sung gia đình du học sinh có trách nhiệm thực hiện chi trả chi phí bồi hoàn (có du học sinh đi học chưa có cơ quan công tác).

Theo Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, bổ sung này hoàn toàn cần thiết và hợp lý, thể hiện tính nhân văn và linh hoạt của chính sách. Thực tế cho thấy, không ít trường hợp du học sinh gặp tai nạn, bệnh tật hoặc biến cố gia đình khiến họ không thể hoàn thành khóa học.

Đặc biệt, việc quy định rõ cách thức nộp bồi hoàn và trách nhiệm gia đình sẽ góp phần nâng cao tính răn đe và ý thức trách nhiệm, hạn chế tình trạng du học bằng ngân sách nhưng không quay trở về đóng góp cho đất nước. Đồng thời, điều này cũng tạo hành lang pháp lý rõ ràng, tránh tranh chấp, kéo dài trong xử lý sau này.

Tiến sĩ Trần Đình Lý cũng đề xuất thêm, trước hết, cần xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về du học sinh đi học bằng ngân sách nhà nước để theo dõi, kết nối và khai thác hiệu quả nguồn lực sau khi họ hoàn thành chương trình đào tạo. Đồng thời, quy trình cử đi - tiếp nhận - theo dõi cần tinh gọn hơn, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số và tự động hóa.

Về phía người học, cần truyền thông rõ ràng từ đầu về quyền lợi, nghĩa vụ cũng như trách nhiệm khi thụ hưởng ngân sách nhà nước, đảm bảo họ hiểu và tự nguyện cam kết. Với các trường đại học, cần được trao quyền chủ động hơn trong việc lựa chọn đối tác, xây dựng chương trình liên kết quốc tế, từ đó gắn trách nhiệm sử dụng ngân sách với kết quả đầu ra cụ thể.

Đặc biệt, cần xem việc cử người ra nước ngoài học tập, nghiên cứu là đầu tư chiến lược và đầu tư vào con người nên phải có chính sách vừa khuyến khích, vừa ràng buộc minh bạch, rõ ràng.

Trong khi đó, Tiến sĩ Đỗ Thế Cần cho rằng, thực tế nhiều trường hợp đi học bằng ngân sách công phải dừng học giữa chừng vì lý do sức khỏe, tâm lý, thậm chí có người rơi vào khủng hoảng tinh thần nghiêm trọng. Tình trạng này khiến không ít ứng viên e ngại rủi ro bồi hoàn nên tự tìm học bổng thay vì đi học theo Đề án 89 hay trước đó là Đề án 322 (Đề án "Đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước").

Bên cạnh đó, việc yêu cầu người thân ký cam kết liên đới trách nhiệm bồi hoàn cũng còn nhiều bất cập trong triển khai. Ví dụ, nếu người học ly hôn, vợ/chồng từng ký cam kết sẽ không còn nghĩa vụ pháp lý hoặc trường hợp bố mẹ ký cam kết nhưng qua đời hoặc không có khả năng tài chính cũng không thể thực hiện việc bồi hoàn. Lúc này, trách nhiệm hoàn trả gần như không thể thực thi, khiến chính sách mất đi tính ràng buộc.

Việc bổ sung quy định về cơ chế bồi hoàn trong các trường hợp bất khả kháng, đồng thời nêu rõ trách nhiệm của du học sinh và gia đình trong việc hoàn trả chi phí đào tạo nếu không hoàn thành nghĩa vụ cam kết là hợp lý, giúp các cơ sở cử người đi học có cơ sở pháp lý để thực hiện việc thu hồi kinh phí.

Tuy nhiên, Nhà nước, các bộ, ban ngành liên quan cần rà soát kỹ lưỡng và lấy ý kiến rộng rãi từ các viện nghiên cứu, trường đại học, cũng như các nhóm đối tượng trực tiếp liên quan như người đã hoàn thành nghĩa vụ, người chưa hoàn thành và người học xong nhưng lựa chọn ở lại nước ngoài. Đây là cơ sở để xây dựng chính sách vừa đảm bảo nguyên tắc trách nhiệm trong sử dụng ngân sách nhà nước, vừa bảo vệ quyền lợi chính đáng của người học.

dai-hoc-bach-khoa-da-nang.jpg
Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng trong một buổi làm việc về trao đổi hợp tác đào tạo cùng Đại học Padjadjaran, Indonesia. Ảnh: website nhà trường.

Từ thực tế quá trình đi học bằng ngân sách nhà nước, thầy Cần cho rằng cần xem xét lại mức hỗ trợ tài chính cho du học sinh căn cứ vào từng quốc gia cụ thể mà người học đi du học: “Mức hỗ trợ tài chính theo quy định hiện hành chỉ đủ để du học sinh duy trì cuộc sống ở mức tối thiểu, chưa đáp ứng được các khoản sinh hoạt cơ bản tại nhiều quốc gia phát triển. Chẳng hạn, thời điểm đi học, tôi được cấp 870 USD/tháng (khoảng 23 triệu đồng), trong khi mức sinh hoạt tối thiểu tại nước sở tại vào khoảng 1.100 USD (tương đương 28 triệu đồng). Khoảng chênh lệch này khiến việc trang trải cuộc sống của tôi trở nên khá chật vật.

Vì vậy, Nhà nước có thể xem xét nâng mức hỗ trợ sinh hoạt phí cho du học sinh, đồng thời đi kèm những yêu cầu cao hơn về kết quả học tập và nghiên cứu khoa học như số lượng công bố bài báo khoa học, tham gia dự án nghiên cứu hoặc có sản phẩm đóng góp cụ thể.

Bên cạnh đó, cách phân bổ kinh phí vẫn còn mang tính cào bằng, chưa tính đến sự khác biệt giữa các trường và khu vực học tập. Du học sinh theo học tại các đại học thuộc nhóm 100 hay 500 trường hàng đầu thế giới, nơi có yêu cầu đầu vào cao và chi phí sinh hoạt đắt đỏ, vẫn nhận mức hỗ trợ tương đương với người học tại các trường thứ hạng thấp hơn hoặc ít yêu cầu đầu vào. Điều này không chỉ thiếu công bằng mà còn chưa đủ sức khuyến khích nhân tài.

Thay vì chia theo khu vực địa lý như châu Âu hay châu Mỹ, chính sách nên linh hoạt hơn, dựa trên chất lượng cơ sở đào tạo, mức chi phí thực tế và năng lực cá nhân của người học. Chỉ như vậy mới có thể thu hút và giữ chân những cá nhân xuất sắc, phục vụ cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong dài hạn”.

Còn theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Hoài Thắng, việc bổ sung quy định miễn bồi hoàn chi phí đào tạo trong một số trường hợp bất khả kháng và làm rõ hơn trách nhiệm của gia đình du học sinh góp phần tháo gỡ nhiều vướng mắc trong thực tiễn.

Trong quá trình học tập và nghiên cứu, người học có thể gặp phải những biến cố ngoài ý muốn như bệnh tật, khủng hoảng tâm lý hoặc tai nạn, khiến họ không thể hoàn thành cam kết như ban đầu. Với những trường hợp bất khả kháng, chính sách cần có cách xử lý linh hoạt như miễn bồi hoàn hoặc áp dụng cơ chế chia sẻ rủi ro. Điều này không chỉ thể hiện tính nhân văn mà còn giúp người học yên tâm hơn khi tham gia các đề án đào tạo bằng ngân sách Nhà nước.

Tuy nhiên, người học cũng cần hiểu rõ đây là khoản hỗ trợ có điều kiện, gắn liền với mục tiêu đào tạo cụ thể. Khi đã lựa chọn con đường này, mỗi cá nhân phải chủ động chia sẻ trách nhiệm cùng Nhà nước.

Khánh Hòa