Mặc dù, những chính sách về bồi dưỡng nhân lực, cử người học ra nước ngoài học tập bằng ngân sách nhà nước phần nào đã giải quyết được bài toán nhân lực, nâng cao chất lượng đội ngũ nhưng vẫn còn tồn tại một số bất cập trong thực tiễn triển khai. Thực tế này đặt ra yêu cầu cần điều chỉnh chính sách phù hợp hơn để tháo gỡ những rào cản, khuyến khích cán bộ, giảng viên mạnh dạn tham gia các chương trình đào tạo bằng ngân sách nhà nước.
Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 86/2021/NĐ-CP ngày 25/9/2021 của Chính phủ quy định việc công dân Việt Nam ra nước ngoài học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật để lấy ý kiến.
Theo đó, Bộ đề xuất cho phép du học sinh du học bằng ngân sách nhà nước được phép học tiếp ở nước ngoài sau khi hoàn thành chương trình đào tạo.
Cho phép du học sinh học tiếp ở nước ngoài là hướng đi phù hợp trong bối cảnh hội nhập
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trần Vũ - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: "Tôi cho rằng đề xuất trên thể hiện sự linh hoạt trong quản lý và phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Tuy nhiên, để chính sách thực sự hiệu quả và công bằng, điều quan trọng cần phải phân biệt rõ mục tiêu đào tạo".
Theo thầy Vũ, nếu mục tiêu là bồi dưỡng nhân tài, chính sách cần mang tính khuyến khích, hạn chế ràng buộc hành chính, đồng thời tạo điều kiện để người học có thể tiếp tục học tập tại môi trường có điều kiện tốt nhất, kể cả ở nước ngoài nếu phù hợp.
Nếu mục tiêu để đào tạo nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu cụ thể của nhà nước, ngành, địa phương thì việc học tiếp ở nước ngoài phải được xem xét kỹ lưỡng dựa trên nhu cầu thực tế về nhân lực, khả năng bố trí công việc sau khi về nước và cơ chế ràng buộc rõ ràng về nghĩa vụ phục vụ của người học.
Trên thực tế, việc cho phép du học sinh đi học bằng ngân sách công được ở lại nước ngoài học tiếp sau khi hoàn thành chương trình đào tạo sẽ mang lại nhiều thuận lợi.
Đối với người học, việc này giúp họ duy trì được mạch đào tạo, tiếp cận các chương trình tiên tiến và môi trường nghiên cứu quốc tế hiện đại, đặc biệt với những ngành học trong nước chưa có điều kiện đào tạo tương đương. Nếu được triển khai với cơ chế minh bạch và phù hợp, chính sách sẽ tạo tâm lý an tâm, tin tưởng và thúc đẩy sự phát triển lâu dài.
Đối với nhà trường, việc có sinh viên, cán bộ tiếp tục học tập, nghiên cứu ở nước ngoài trong khuôn khổ hợp tác sẽ giúp mở rộng mạng lưới học thuật, tăng khả năng hợp tác nghiên cứu, đồng hướng dẫn luận án và xây dựng chương trình liên kết quốc tế. Nếu kết nối tốt, sau khi người học hoàn thành chương trình, đây còn là nguồn lực bổ sung cho các nhóm nghiên cứu và trung tâm đào tạo sau đại học của trường.
"Tuy nhiên, những thuận lợi này chỉ đạt được khi triển khai dựa trên mục tiêu rõ ràng, có cơ chế giám sát, ràng buộc phù hợp cũng như gắn với chiến lược đầu tư phát triển năng lực đào tạo trong nước", thầy Vũ nêu quan điểm.

Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC.
Cùng bàn về vấn đề này, Tiến sĩ Nguyễn Quang Trung - Trưởng phòng, Phòng Tổ chức hành chính, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng cho biết: “Quá trình cử cán bộ, sinh viên ra nước ngoài đào tạo đang được triển khai khá thuận lợi với sự phối hợp hiệu quả giữa người học, cơ sở đào tạo trong nước và quốc tế.
Việc tạo điều kiện để du học sinh đi học bằng ngân sách nhà nước có thể tiếp tục tham gia các khóa học cao hơn ở nước ngoài sau khi tốt nghiệp là một chính sách phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Điều này không chỉ giúp họ duy trì mạch nghiên cứu sau khi hoàn thành chương trình thạc sĩ, tiến sĩ mà còn mở ra cơ hội để họ phát huy tối đa năng lực trong môi trường quốc tế, nơi có điều kiện học thuật và chính sách hỗ trợ nghiên cứu tốt hơn.
Về phía cơ sở đào tạo, việc cử cán bộ, giảng viên ra nước ngoài vừa giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, vừa có cơ hội tham gia vào các dự án nghiên cứu quốc tế. Nếu thiết lập được cơ chế phối hợp chặt chẽ với cơ sở đào tạo nước ngoài, khả năng hợp tác học thuật, phát triển nghiên cứu và xây dựng mối quan hệ sẽ bền vững hơn. Cách tiếp cận này nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu, cũng như tạo cầu nối lâu dài giữa tổ chức giáo dục trong và ngoài nước, qua đó thu hẹp khoảng cách về trình độ nghiên cứu khoa học giữa Việt Nam và các nước phát triển.
Tuy nhiên, trên thực tế một số nghiên cứu sinh sau khi hoàn thành chương trình học không trở về nước làm việc như cam kết ban đầu. Nguyên nhân chủ yếu là do hoàn cảnh gia đình, sự thay đổi về lựa chọn cá nhân. Tình trạng trên đặt ra bài toán về hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực được đào tạo bằng ngân sách nhà nước.
Vì vậy, cần quy định cụ thể về nghĩa vụ làm việc trong nước sau khi hoàn thành chương trình đào tạo, áp dụng chế tài bồi hoàn kinh phí đối với trường hợp vi phạm cam kết. Cùng với đó, cần có đãi ngộ hợp lý để tạo động lực cho du học sinh trở về cống hiến. Đây là giải pháp giúp đảm bảo công bằng, nâng cao hiệu quả đào tạo nhân lực chất lượng cao, ngăn chặn tình trạng "chảy máu chất xám" cũng như tối ưu hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước”.

Đại học Đà Nẵng. Ảnh: NVCC.
Có căn cứ pháp lý rõ ràng để xử lý linh hoạt vấn đề liên quan đến bồi hoàn chi phí đào tạo
Dự thảo cũng bổ sung thêm quy định về miễn bồi hoàn chi phí đào tạo trong các trường hợp bất khả kháng, bổ sung gia đình du học sinh có trách nhiệm thực hiện chi trả chi phí bồi hoàn (có du học sinh đi học chưa có cơ quan công tác).
Thầy Trung đánh giá, đây là bước tiến quan trọng, mang lại nhiều thuận lợi cho các cơ sở giáo dục. Theo đó, nhà trường và cơ quan quản lý nhà nước sẽ có căn cứ pháp lý rõ ràng để xử lý linh hoạt vấn đề liên quan đến bồi hoàn chi phí đào tạo, từ đó nâng cao hiệu quả thực thi chính sách trong thực tiễn.
Tuy nhiên, cần lưu ý quy định về trường hợp bất khả kháng phải thật sự rõ ràng, cụ thể, tránh tình trạng chung chung dẫn đến khó khăn khi áp dụng. Cơ quan quản lý nhà nước cần có hướng dẫn cụ thể để các trường áp dụng thống nhất, minh bạch và đúng quy định khi xử lý trường hợp không thực hiện đúng cam kết quay về công tác.
Bên cạnh đó, hiện nay du học sinh đi học theo diện được cử đi đều phải có người thân trong gia đình đứng ra bảo lãnh nhưng trách nhiệm cụ thể chưa được quy định rõ ràng trong từng trường hợp. Việc ràng buộc thêm trách nhiệm của gia đình là cần thiết, nhằm giảm thiểu nguy cơ thất thoát ngân sách nhà nước cũng như tăng cường tính ràng buộc về nghĩa vụ sau khi kết thúc chương trình đào tạo.
Ví dụ, trường hợp bố mẹ là người trực tiếp ký cam kết bảo lãnh cho du học sinh nhưng trong thời gian học kéo dài từ 3-5 năm, có thể phát sinh biến cố như bố mẹ qua đời hoặc mất khả năng thực hiện nghĩa vụ. Khi đó, việc thực hiện cam kết trở nên phức tạp, đặt ra nhiều vướng mắc về pháp lý và quản lý. Vì vậy, cần có giải pháp xử lý phù hợp theo từng trường hợp cụ thể.

Trong khi đó, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Trần Vũ cho rằng, việc bổ sung quy định miễn bồi hoàn chi phí đào tạo trong các trường hợp bất khả kháng là điều cần thiết và nhân văn, giúp giải quyết những tình huống đặc biệt trong thực tế như tai nạn, bệnh tật, thiên tai... khiến người học không thể hoàn tất chương trình học. Tuy nhiên, chính sách này cần được thiết kế dựa trên cơ sở phân biệt rõ ràng mục tiêu đào tạo.
Nếu mục tiêu là bồi dưỡng nhân tài thì không nên áp dụng cơ chế bồi hoàn hành chính. Thay vào đó, nhà nước cần xây dựng một hệ sinh thái đủ hấp dẫn để người học chủ động quay về, cống hiến trong môi trường phù hợp với năng lực và nguyện vọng.
Ngược lại, nếu ngân sách được sử dụng để đào tạo nguồn nhân lực phục vụ nhu cầu rõ ràng của cơ quan nhà nước, ngành nghề trọng điểm hoặc địa phương, thì việc quy định bồi hoàn là hợp lý. Tuy nhiên, cơ chế này phải minh bạch, có hợp đồng rõ ràng như hợp đồng dân sự và có tính khả thi.
Trách nhiệm bồi hoàn phải gắn với người học là đối tượng trực tiếp ký kết nhận kinh phí. Việc bổ sung trách nhiệm của gia đình cần xem xét kỹ lưỡng. Nếu yêu cầu người thân cùng chịu trách nhiệm, phải thỏa thuận và có cam kết rõ ràng ngay từ đầu.
Còn theo Trưởng phòng Phòng Tổ chức hành chính, Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng, để việc cử người học ra nước ngoài học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật phát huy hiệu quả, đảm bảo cả quyền lợi của người học và trách nhiệm sử dụng ngân sách nhà nước, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan cử người đi học và cơ sở đào tạo tiếp nhận ở nước ngoài.
Hai bên nên thiết lập cam kết hợp tác chính thức, trong đó quy định rõ du học sinh sau khi hoàn thành chương trình học bắt buộc phải trở về nước làm việc trong khoảng thời gian đã quy định từ ban đầu. Cam kết này nhằm hạn chế tình trạng "chảy máu chất xám" và tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, giám sát du học sinh trong và sau quá trình học.
Đồng thời, nếu các cơ sở đào tạo nước ngoài phối hợp chặt chẽ, cùng chia sẻ trách nhiệm trong việc quản lý du học sinh như không khuyến khích hoặc không hỗ trợ ở lại làm việc lâu dài khi chưa có sự đồng ý từ phía cơ quan cử đi, hiệu quả của chính sách sẽ được nâng cao đáng kể.
Từ thực tiễn triển khai, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đánh giá, chính sách quy định việc công dân Việt Nam ra nước ngoài học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật cần được thiết kế lại theo hướng hiệu quả, bền vững và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, cần phân biệt rõ mục tiêu đào tạo là bồi dưỡng nhân tài hay đào tạo nhân lực cho cơ quan nhà nước, ngành nghề trọng điểm hoặc địa phương. Mỗi mục tiêu nên có chính sách riêng với cơ chế hỗ trợ hoặc ràng buộc phù hợp.
Thứ hai, Việt Nam cần chuyển dần trọng tâm đầu tư sang phát triển hệ sinh thái đào tạo và nghiên cứu sau đại học trong nước, bao gồm học bổng nghiên cứu sinh, đầu tư hạ tầng nghiên cứu và xây dựng các chương trình nghiên cứu dài hạn, mang tính chiến lược.
Thứ ba, cần mời chuyên gia, giảng viên, nhà khoa học quốc tế đến Việt Nam giảng dạy, hướng dẫn nghiên cứu, tham gia đồng hướng dẫn luận án. Điều này giúp tiết kiệm chi phí, tạo môi trường học thuật quốc tế trong nước, đồng thời góp phần nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên và nghiên cứu viên.
Thứ tư, cần xây dựng hệ thống quản lý hiệu quả để theo dõi toàn diện người học sử dụng ngân sách nhà nước từ khi bắt đầu đến sau khi quay về. Điều này nhằm đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm sử dụng ngân sách.
Thứ năm, cần đánh giá toàn diện chính sách cử người đi đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước trong 10-15 năm qua, từ đó làm cơ sở để điều chỉnh theo hướng bài bản, có chiến lược và hiệu quả hơn.
Ngày 18/01/2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 89/QĐ-TTg phê duyệt Đề án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030 (Đề án 89).
Đề án đặt ra các mục tiêu cụ thể như đào tạo trình độ tiến sĩ cho khoảng 10% giảng viên đại học, bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu; thu hút được ít nhất 1.500 nhà khoa học, người có trình độ tiến sĩ đang công tác ở nước ngoài hoặc đang làm việc trong nước, ngoài các cơ sở giáo dục đại học đến làm việc tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam... Tuy nhiên, tính đến tháng 11/2024, tổng số người đang học theo Đề án 89 là 451 người, trong đó có 177 người đào tạo ở nước ngoài. [1]
Tài liệu tham khảo
[1] https://giaoduc.net.vn/tinh-den-thang-112024-co-451-thay-co-dang-hoc-tien-si-theo-de-an-89-post247585.gd